trang mở đầu || LVChâu lời chào mừng || CVThành lời chúc mừng || NT KHBá những HC2 lìa đàn || HC2 thương tiếc cố HC2 NVĐệ || NĐHoàng hội trùng dương || NTTánh 45 năm ra khơi || Chị NVThước CB tiền ĐH || TDTín du ngoạn hậu ĐH || Chị NVThước gã 20 || NTTánh cảm nghỉ về ĐH2015 || Chị LVTài tình chàng ý thiếp || Chị NVĐệ những ngày tháng không quên || Chị LVTài đông kinh nghĩa thục || NVĐệ nhớ thương || Chị LVTài **


những ngày tháng không quên

  T rãi qua bao nhiêu sự khó khăn vất vả, vật chất thiếu thốn, tinh thần buồn thảm, cố nuốt vào lòng bao nhiêu dòng lệ của sự nhớ thương, mong đợi, niên học 1979-1980 cũng ì ạch đi qua. Tôi ẵm con về quê chồng, trước là thăm gia đình chồng, sau là chờ chồng tôi xin giấy phép để cùng mẹ con tôi trở về Huế, phải chờ mấy ngày mới cầm được tờ giấy phép đi đường trên tay, chúng tôi vội vàng lên Sài Gòn ngay, ra ga Bình Triệu chầu chực để mua vé xe lửa, giá vé xe lửa tương đối rẽ hơn vé xe đò. Cũng vì cái nạn “quốc doanh”, tức nhà nước dành quản lý, nên mua được tấm vé rất khó, phải mất ăn mất ngủ chầu chực mấy ngày trời, không dám rời chỗ đứng nơi hàng ngàn người đang sắp hàng chờ đợi dài ngoằn ngoèo như rồng rắn, hể chồng tôi mắc tiểu thì vợ đứng vào thay, đó là nhờ tôi có tấm giấy cô giáo về quê nghỉ hè, được sắp hàng ở cửa cán bộ công nhân viên, chớ đứng trong hàng dân giả thì dòng người phải uốn qua lượn về dài hai ba lớp!
Chúng tôi không làm sao mua được vé tàu về thẳng Huế, vì người “có quyền” ngồi phía trong ô cửa kia chỉ bán ra vài ba vé rồi phán “ngày hôm nay vé tàu đi Huế đã hết, quí hành khách chờ ngày mai!”
Chầu chực mất mấy hôm mà chưa mua được vé về Huế nên tôi bảo chồng tôi cứ mua vé về Nha Trang, khi đến ga Nha Trang thì lại phải chầu chực suốt ngày mới mua được vé về Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng mua vé về Huế!
Ôi “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, những ai đã trãi qua những vấn nạn chầu chực ngày đêm ở các ga xe lửa, các bến xe đò để mua vé về quê thăm gia đình trong thời gian nầy thì mới thấu hiểu được sự vất vả, gian nan và tức tối nầy! Cũng vì vậy mà sản sinh ra một nghề mới, nghề nầy chỉ có ở nước VN xả hội chủ nghỉa hay có thể tại các nước Cộng sản vì nạn “quốc doanh”. Đó là nghề sắp hàng dành chổ hay nhảy lên tàu dành chổ, một số người lợi dụng sự mua vé khó khăn nên đã nảy ra một ý. Họ đến các ga tàu, bến xe đứng sắp hàng trong dòng người mua vé, khi thấy có người đến dáo dát tìm nơi bán vé thì một “cò mồi” đồng bọn đón lại, hỏi cần mua vé đi đâu, miệng lưởi họ dẻo quẹo nên cũng có một số người “dính câu”, thế là họ dẫn người khách kia đến hàng người đang đứng đợi. Trước quầy vé đó, người của nhóm nầy khá đông và rãi ra dành sắp chỗ hầu hết trong các hàng người đứng chờ mua vé trước quay vé của hết các tuyến đường nên nghề nầy coi bộ cũng khấm khá lắm! Nếu khách muốn chổ đứng gần ô cửa bán vé thì giá cao, rồi giá hạ thấp từ từ xuống nếu chổ đứng càng lùi xa phía sau. Nghề mới thứ hai là nghề nhảy tàu dành chổ, thì chính tôi là người trong cuộc và xãy ra tại ga Nha Trang.

Có một lần tôi về Huế cùng đứa em trai và đứa con trai chưa đầy tuổi của tôi, mặc dù cả hai chị em là giáo viên cấp 3 đi về quê nghỉ hè có giấy đi đường đàng hoàng và được sắp chỗ ở ô cửa “ưu tiên dành cho cán bộ, công nhân viên nhà nước”, cũng phải ăn dầm dề nơi ga Bình Triệu mất mấy ngày mới mua được 2 tấm vé, khi thấy đầu tàu lửa vừa xuất hiện từ đầu sân ga thì nhiều người đã vội nhảy lên dù tàu vẫn còn chạy chưa ngừng. Tôi cũng nhảy lên tàu để cho em và con tôi đứng đợi bên những giỏ đồ, nhanh chân nhanh mắt tìm được 2 chiếc ghế mà tôi đã mua. Toa tàu nầy dành cho khách nên ghế có chổ dựa và ngồi nhìn lên trông sạch sẽ, lịch sự lắm! Khi tôi đến sát bên 2 chiếc ghế ấy thì đã có 2 tên bộ đội đã ngồi rồi. Tôi chìa 2 tấm vé ra và yêu cầu họ đứng lên để nhường ghế lại cho chị em tôi. Ban đầu tôi nói rất đàng hoàng, nhưng họ vẫn ngồi ì không nhúc nhích, họ còn nói: “chúng tôi cũng mua vé với số ghế nầy” rồi họ móc túi lấy vé ra đưa cho tôi xem, quả thật vé của họ cũng mang số giống tôi nhưng chỉ khác chút xíu là có chử B phía sau số, thế nhưng trong toa xe lửa chẳng có ghế nào có thêm chử B hay C phía sau cả. Tôi bắt họ phải nhường ghế cho tôi, níu nhỏ nhẹ họ vẫn ngồi lì, tôi đâm quạo nhào đến nắm tay họ kéo ra, họ cố trì lại, tôi la lên: “Hai chú mặt mày lì lợm quá, 2 ghế này phía sau số đâu có chử B”. Mặc kệ tôi la hét, họ vẫn chai mặt ngồi tỉnh bơ. Đến đây, các ông bà, cô bác anh chị em đang ngồi cùng toa lên tiếng bênh tôi: “Hai chú là bộ đội, là thanh niên trai tráng, mạnh khỏe như vậy mà đi dành chổ ngồi với đàn bà yếu đuối như thế mà không nhục sao? rõ ràng 2 ghế nầy là của cô nầy”. Mỗi người một câu, ào ào lên như đàn ong vỡ tổ khiến hai người lính Việt Cộng nầy cũng cảm thấy xấu hổ, họ miễn cưỡng đứng dậy đi qua toa khác, để hai chiếc ghế ấy cho tôi.
Dành được hai ghế xong, tôi nhảy xuống tàu, tìm đến nơi mà em và con tôi đang đứng để chuyển đồ lên tàu, khi nhìn thấy chỉ có con trai nhỏ bé của tôi đứng một mình bên một chiếc vali, còn em trai và những giỏ đồ kia không có, mặt tôi tái lên, chạy vội đến ôm con chưa kịp hoàn hồn thì em trai tôi xuất hiện nó nói vì thấy lâu quá tôi chưa quay trở lại, mà cái toa bên cạnh nó đứng thì còn rộng, nên nó chuyễn đồ lên dành chổ, sợ trễ thì không có chỗ. Vậy là hư bột hư đường hết rồi, tôi đành ôm con theo nó. Toa tàu mà nó dành chỗ là toa tàu dành cho bạn hàng, chỉ có băng ghế dài bằng gổ kê sát vào nhau làm hai phía hai bên, chỉ chừa con đường nhỏ hẹp cho khách đi đứng. Vì là toa tàu dành cho bạn hàng nên dưới mấy băng gổ để đầy cần xé, bao bộc, thúng rổ nên chật chội, dơ dáy và lôn xộn vô cùng. Nhưng đã lở rồi, đồ đạc của chúng tôi thì em tôi đã nhét dưới gầm một băng ghế, làm sao moi ra để dời lên toa khách mà tôi đã tốn công tốn lời dành lại với hai tên bộ đội kia; vậy là phải đành “đánh mắt đưa chân”, ngồi lại ở toa lộn xộn nầy. Nhưng tôi đâu có ngờ vì toa nầy chỉ có ghế băng dài không có số, nên tàu đến ga nào cũng có thêm người leo lên và khi tàu đến ga Nha Trang thì số người trong toa đã tăng gấp bốn năm lần, đến nổi người nầy ngồi sát người kia như cá mòi trong hộp, muốn nhúc nhích cũng khó khăn, phía dưới những băng dài thì chật ních nào thúng mũng, nào bịch bị, nào cần xé đựng đầy hàng hóa của những bà buôn bán đường ngắn đường xa, lại còn nào gà vịt, heo cúi nửa nên ngồi trong toa nầy thật là khốn khổ, vừa chật, vừa hôi, vừa ồn! Thế nhưng tôi cũng cố gắng chịu đựng vì nghĩ rằng hai ngày nửa thôi là tới Huế; cứ nghỉ đến ba mẹ, các em ở Huế đang mong chờ chúng tôi thì sự chịu đựng tăng lên. Khi tàu đến ga Nha Trang, dừng lại khá lâu, không thấy người xuống mà chỉ thấy người lên.
Tuy số người đang ngồi trên các toa tàu đã quá tải, một thanh niên to cao mặt mày bậm trợn tiến lại sát cửa sổ chổ tôi đang ngồi, có một chị đàn bà cùng mấy đứa nhỏ theo sau. Người thanh niên kia định leo lên tàu bằng cửa số ấy, tôi vội lên tiếng: “Trên nầy đông lam rồi, không còn trống một chổ nào hết, anh đi toa khác đi”. Nhưng thanh niên kia vẫn cố đu mình lên. Lúc ấy tôi đứng dậy, ngồi chắn ngang cửa sổ, lưng đưa ra phía ngoài cố không cho thanh niên kia leo lên; bỗng thấy lưng hơi đau vì đụng vật nhọn, quay lại thấy thanh niên kia cầm con dao nhỏ, nhọn dí sát vào lưng tôi, hắn nói: “Cô có chịu xê ra dể tôi lên leo hay không?

Tôi vẫn cứng đầu trả lời: ”Anh không được lên, chật lắm rồi”, mũi dao dí thêm một chút nữa. Mấy bà bạn hàng, mấy ông bộ đội ngồi gần đó vội kéo tôi xuống và nói: ”Cứ để cho hắn lên di, kẻo không hắn dám đâm cô lắm đó”. Vậy là hắn leo lên và dành chổ, đẫy người nầy, kéo người kia để có một chổ trống. Thấy hắn dử dằn và có dao nhọn nên ai cũng nín lặng nhịn nó, sau đó hắn vội bảo bà kia đưa các con lên toa tàu bằng cửa chính. Khi mấy mẹ con an vị xong, người đàn bà kia móc túi lấy tiền đưa cho hắn; xong đâu vào đấy hắn ta đi xuống bằng cửa chính.
Trong toa đã chật lại càng thêm chật. Chuyến tàu nầy thật là bầm dập. Số người trong toa phải nói gấp ba lần sức chứa của nó. Hầu hết hành khách thuộc dân buôn bán, lao động, bộ đội, nên lời lẽ ăn nói của họ như “dùi đục chấm mắm cáy”, không thích hợp với tôi chút nào, mỗi băng ghế đúng ra chỉ có 10 người ngồi, nay nhét đến gần 30 mạng như nén cà trong lu khạp nên phải ngồi yên một bề không nhúc nhích ngu nghoe gì được, tôi lại ẵm con nhỏ nên càng khó khăn hơn. Thêm vào đó, tiếng gà, vịt, heo thay nhau kêu ỏm tỏi làm cho người ngồì trên băng ghế đã mệt càng thêm mệt. Vì chứa đựng một trọng lượng nhiều gấp mấy lần nên chiếc tàu lửa chạy ì ạch, ì ạch còn thua cả đi xe đạp. Tàu chạy không biết bao lâu, thì một đêm nọ, ngoài trời tối đen như mực, trong toa ai nấy đều ngủ gà ngủ gật vì quá mệt mỏi. Mấy người bộ đội lấy tấm vả nylong trãi dài theo đường đi ở giửa rồi nằm dài xuống chận cả lối đi mặc cho mấy người trật tự trên tàu la mắng. Thằng em tôi cũng vội nhào xuống nằm ké một bên vì quá mệt, tôi thì ngồi ôm con và nhắm mắt cố ngủ để sức khỏi mòn mỏi vì quá lao lực, bỗng có nhiều tiếng la thất thanh:
- Lửa cháy toa tàu, lửa cháy toa tàu.
Tôi mở mắt ngay và nhìn ra cửa sổ, thấy một khoảng trời sáng lên vì có mấy tia lửa bên hông tàu xoạt lóe ra. Tàu vẫn chạy và chỉ ít phút sau, hai bên thân tàu mà chúng tôi đang ngồi đã có một số ngọn lửa vàng nhố lên cao. Một số người đang ngồi ngủ gà ngủ gật thì đã tỉnh, trên gương mặt ai nấy đều lộ vẽ lo âu. Còn một số người đang nằm chen chút dưới sàn toa thì vẫn nằm thẳng cẳng, họ không buồn lồm cồm ngồi dậy, trong đó có thằng em của tôi. Thấy ngọn lửa càng lúc càng có ngọn, tôi lên tiếng gọi em tôi:
- Được, Được, dậy đi, mau lên, rồi ra cửa sổ mà ngồi, có chuyện gì nguy hiểm thì nhảy ra cửa sỗ.
Miệng thì lớn tiếng gọi em, còn chân thì leo lên băng ghế, hai tay ôm con thật chặt, rồi vội vàng leo lên cửa sỗ, ngồi lên lề cửa, một chân thòng ra ngoài, một chân để trên mặt băng gổ, tôi đang ở trong tư thế nhảy ra khỏi tàu nếu ngọn lửa lên quá cao. Vài người cũng bắt chước làm như tôi, còn số lớn thì không dám vì bên ngoài trời tối đen như mực, không biết đang ở đâu và hai bên là vực thẳm hay đất bằng, là núi đồi hay sông nước? Thằng em tôi vẫn cứ nằm lì trên miếng vải nylong cùng mấy người bộ đội. Thức suốt mấy ngày đêm để sắp hàng mua vé, không dám ngủ dù là ngủ gà ngủ gật vì sợ người ta dành chổ, mà đứng sau một chổ cũng có thể ở chờ ngày mai vì số vé bán ra công chính rất giới hạn, lại thêm ngồi suốt ngày chen chúc như cá mòi nhét trong hộp thì hỏi làm sao mà không mệt không đuối sức? Lúc đó, ngay trong trí khôn của tôi đã có một sự so sánh giửa cái chết và sự sống còn. Nếu như lửa cháy lớn thì số người có mặt trong toa xe lửa nầy sẽ rất nguy hiểm, sẽ chết vì vì lửa và cũng sẽ chết vì đạp nhau. Còn nhảy ra khỏi toa xe lửa bằng cửa sổ, dù bên ngoài là đồi núi hay vực sâu, thì cũng có thể chỉ bị thương thôi vì tốc độ tàu chạy không nhanh. Thế nhưng cũng may vì tàu ngừng lại khi những đóm lửa có ngọn hơi cao, không ai biết đây là đâu vì trời tối lắm, hành khách vẫn ngồi tại chổ của mình trên những toa tàu chờ sáng.
Khi bình minh vừa ló dạng, một số người từ trên tàu nhảy xuống đường rầy sắt để tìm hiểu tại sao? Một số người ào ra từ các cửa lên xuống, các cửa sổ để nhìn xuống quan sát. Cả một đoạn đường dài gần cây số, những thanh gỗ nằm ngang bị nghiến nát bấy, thì ra toa tàu mà chúng tôi đang ngồi là toa cuối, khi tàu quẹo qua một khúc đường cong, toa nầy bị trật bánh đường rầy, cả khối sắt của toa tàu bị cạ vào hai thanh sắt đường rầy, ma sát nên toé lửa. Vì không hề biết sự việc xảy ra đàng sau nên người lái tàu cứ tiếp tục lái. Sự ma sát càng tăng nên mới có ngọn lửa. Vậy là phải chờ đợi cả nửa ngày để kéo toa tàu lên đường rầy.
Tôi nhìn cảnh vật hai bên mà thấy sợ, bởi vì đường rầy sắt nằm trên cao, phía bên tôi ngồi và định nhảy xuống là vực thẳm đầy cây cối giây leo chằng chịt. Đây thuộc tỉnh Quãng Ngãi, lòng mừng thầm vì càng ngày càng gần Huế, quê hương yêu dấu của tôi, sắp được gặp gia đình thương mến của tôi! Chắc ba Mẹ và các em tôi đang trông chờ.
Tàu ì ạch chạy khi gần đến ga Đà Nẵng trời vẫn còn sáng và nắng gắt, cứ tưởng tàu dừng nghỉ trên dưới một tiếng đồng hồ như đã loan báo, ai dè chờ mãi chờ hoài suốt mấy tiếng đồng hồ mà tàu chưa chạy tiếp. Hỏi ra mới biết có một chiếc tàu khởi hành từ Huế vào Nam, khi tàu chạy qua đèo Hải Vân thì bị trật đường rầy nên lưu thông bị cản trở, phải chờ thông đường thì tàu mới chạy tiếp, và sự chờ đợi không biết đến bao giờ!
Ngồi trên toa tàu quá nóng nực và mỏi mệt, một số bộ đội vội xuống tàu, họ tìm một bóng mát nào đó để trãi tấm vải ni long và nằm vật xuống; tôi cũng ẳm con bước xuống tàu, định tìm một bóng mát nào ngồi cho thoáng, chờ khi tàu chạy hảy lên, nhưng vừa đi được chục bước thì tôi vội thối lui, trở lại leo lên toa tàu, bởi vì trên sân ga, vô số phân người cùng khắp, tỏa ra một mùi hôi thối chịu không nổi, chẳng thà ngồi trên toa tàu mà chịu nóng nực, còn hơn ngồi dưới bóng mát mà ngửi mùi hôi của vô số phân người đầy rẫy trên sân ga! Ngồi trên toa tàu nhìn ra cửa sổ, tôi thấy mấy người bộ đội cùng vài thanh niên, trong đó có em trai tôi vẫn nằm bất động trên mấy tấm vải ni long trãi trên mặt đất, chung quanh đầy phân khô, phân ướt! Có lẽ họ quá mệt, quá cần một giấc ngủ nên không ngửi được mùi hôi! Cộng sản Việt Nam mới nắm vận mệnh của miền Nam chỉ có vài năm, thời gian quá ngắn mà sao họ đã biến miền Nam thành một ngục tù như vậy!!!!! một đất nước mọi rợ như vậy !!! Tôi đi dạy xa nhà, mỗi năm về Huế hai lần trong dịp Tết Nguyên Đán và hè, về miền Tây thăm chồng hàng tháng nên đã trãi qua rất nhiều lần lê la nằm bờ ngủ bụi, chung đụng với nhiều hạng người trong xã hội.
Người Việt Nam Cộng sản chỉ mới “làm chủ” miền Nam trong một thời gian ngắn mà đã biến Việt Nam thành một quốc gia yếu kém về mọi mặt so với các nước láng giềng Thái Lan, Cam bốt, Lào, Nam Dương, kể cả Singapore mà trước năm 1975 đứng sau miền Nam VN về văn minh tiến bộ! Không kể miền Bắc xã hội chủ nghĩa mấy chục năm, miền Nam ngày đó thật là bát nháo, lộn xộn, phức tạp “vàng thau” lẫn lộn.
Vì nạn “quốc doanh” nên những người dân lương thiện làm việc để hàng tháng lảnh đồng lương ít ỏi của nhà nước phải chịu khốn khổ mỗi khi cần về quê thăm gia đình, vì nạn bán vé chợ đen của mấy ông, mấy bà bán vé xe, vé tàu ở các bến xe, nhà ga với giá cao gấp năm, bảy lần giá chính thức, chỉ có những cán bộ Việt Cộng tham nhũng hay người dân “thừa nước đục thả câu” làm những việc phi pháp, phi lương tâm có lắm vàng nhiều bạc, hoặc dân buốn bán “một vốn mười lời” hay những tên cho vay cắt cổ mới có khả năng mua mà thôi! Mỗi lần phải đến bến xe, nhà ga để chen lấn, sắp hàng mua vé thì tôi mang tâm trạng lo lắng, buồn phiền, khó chịu, bởi vì những nơi nầy thường là địa bàn hoạt động của bọn móc túi, rạch xách tay, là nơi “vàng thau” lẫn lộn. Nếu tình yêu thương chồng con, cha mẹ, anh chị em không đầy ắp trong lòng, nếu sự nhớ nhung không sâu nặng thì chắc tôi không thể lê lết tấm thân của mình để sắp hàng chầu chực mua vé ở mấy bến xe, nhà ga hổ lốn như vậy đâu.
Còn khoảng một tháng nửa mới vào niên học 1980-1981, thằng em tôi từ Huế vào, tìm đến quê chồng tôi để thăm chúng tôi và đưa cho tôi tờ “Sự Vụ Lệnh” của Ty giáo dục Sông Bé thuyên chuyển tôi về công tác tại ty giáo dục Cửu Long ( tức hai tỉnh Vỉnh Long và Trà Vinh sát nhập lại thành một ). Vấn đề sát nhập nhiều tỉnh làm một này đã chứng tỏ sự tính toán lưu manh, chia rẻ trầm trọng của bọn Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian ấy, Trung ương chưa đủ số người tin cậy mà chúng giao phó cho đứng đầu mỗi tỉnh, những người dù là Cộng sản mà không thuộc bè lũ của chúng thì chúng cũng không lấy, do đó, chúng sát nhập hai ba tỉnh làm một, ví dụ như ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên thì chúng gom lại thành một, thành tỉnh Bình Trị Thiên. Vậy là chỉ cần một tên đứng đầu tỉnh thay vì phải cần ba tên! Việt cộng Trung ương đâu có tin ai, xử dụng ai ngoài bè lũ của chúng.
Cầm tờ “Sự vụ lệnh” trên tay, tôi vội đến trường cấp 3 ngay tại quê chồng gặp anh Hiệu trưởng và được anh Hiệu trưởng vui vẽ chấp nhận vì dù sao tôi cũng tốt nghiệp Đại học Sư phạm và có mấy năm kinh nghiệm. Hiệu trưởng lớn hơn tôi ít tuổi, cũng người thuộc miền Trung, sốt sắng cùng tôi đón xe đò đi Vĩnh Long; gặp chú hai Hiếu là Trưởng ty giáo dục Cửu long, chú hai cũng vui vẻ chấp nhận cấp giấy ngay. Khi đã chắc chắn được dạy ngay tại quê chồng, tôi vội ẳm con trai lên lại Sài gòn, chờ mua vé tàu về Huế, mục đích là đón con gái theo sống với tôi, năm đó con gái tôi 6 tuổi. Việc đón con gái vào sống với tôi là niềm mơ ước của tôi suốt mấy năm nay, cứ ngày đêm ôm ấp trong lòng, nay sắp thành sự thật khiến tôi vui mừng khôn xiết, nói như kiếm hiệp thì “Hoàng thiên không phụ hảo tâm nhân”.
Ôi! Có sự sung suớng nào hơn!! Ở lại chơi với ba mẹ và các em ít tuần, tôi đưa hai con trở lại Sài gòn. Chuyến trở lại Sài gòn lần nầy có một chuyện xảy ra mà mổi lần nhớ lại hay nhắc lại là tôi không khỏi rùng mình cho dù đã đi vào dĩ vãng xa xăm. Vì muốn được thoãi mái hơn và nhất là mua được vé rẽ hơn nên tôi chọn đi tàu lửa. Tàu khởi hành từ ga Huế, cã gia đình đều đưa tiễn, chia tay bịn rịn, các ông bà, các dì các cậu thương đứa cháu mà họ đã nuôi nấng, chăm sóc từ miếng ăn giấc ngủ, lúc mạnh khỏe, khi bệnh đau lúc mới chưa đầy tuổi bởi bố nó phải đi tù cải tạo ở tận một vùng núi rừng nào đó và mẹ nó phải đi dạy ở tận một tỉnh quá xa xôi. Nó là một đứa bé “mồ côi” khi vẫn còn cha còn mẹ nên cả ông bà ngoại và các dì các cậu dành cho nhiều sự thương yêu như muốn bù đấp lại sự mất mát của nó vì thời cuộc gây ra nay phải chia lìa, xa cách thì làm sao không quyến luyến, tiếc thương.
Khi tàu đến ga Nha trang thì ngừng lại hơi lâu, khí trời mùa hè hơi oi bức khó chịu nên tôi đưa hai con xuống tàu rồi dẩn đi tới đi lui cho giản chân, trên sân ga thiếu bóng mát của cây, lại thêm đứa con trai muốn “tè”, tôi bèn đem hai đứa chui vào một toa tàu cuối cùng của một chiếc tàu lửa đang nằm trên đường rầy và coi bộ nó không hoạt động, chổ đó rất im, không có nắng. Tôi kéo hai con chui sâu vào bụng nó và ngồi tỉnh bơ, cứ nghĩ chiếc tàu nầy không chạy vì trên tàu không thấy hành khách, định cứ ngồi nghỉ như vậy cho đến khi nào tàu tôi đang đi sắp chạy tiếp thì mới đưa hai con lên.
Cứ ngồi tận hưởng những luồng gió mát từ biển thổi vào mát rười rượi, rồi nhìn hai con ngồi cạnh, lòng tôi tràn ngập niềm vui. Bỗng một thanh niên cúi xuống, nhanh nhẹn nắm tay đứa con gái lôi ra, miệng thì hối thúc: “Chị ơi, đem cháu ra gấp, tàu nầy nổ máy sắp chạy rồi”. Tôi chụp vội con tôi ôm vào lòng, rồi chui ra khỏi toa tàu nhanh như sóc. Vì vội quá không kịp chuẩn bị tư thế nên vừa ra được gầm toa tàu chừng vài tất thì ngã quị xuống, chưa kịp ẳm con đứng lên thì chiếc tàu kia vừa lăn bánh ầm ầm trên con đường sắt. Thật là hú hồn, nhìn theo chiếc tàu kia mà tái xanh cả mặt, một chập lâu tôi mới định thần trở lại. Cám ơn thanh niên kia rối rít, lòng thầm cảm tạ Chúa. Chúa đã cứu ba mẹ con tôi qua mắt, miệng và bàn tay của người thanh niên kia, bởi vì dưới cái nắng chang chang của mùa hè oi bức, ai cũng tìm nơi bóng mát, và nếu có ai cần lui tới, thì họ sẽ đi vội vội vàng vàng, có ai để mắt xuống tàu gầm xe lửa để mà nhìn thấy mẹ con tôi ngồi thụt trong sâu, vậy mà mắt chàng trai nầy đã thấy, tai chàng tay nhanh nhẹn kéo tay con gái tôi ra, miệng chàng trai hối thúc tôi chui ra một cách vội vàng, nhanh chóng kịp thời.
Viết đến đây, tôi xin nói thêm về sự làm việc vô trách nhiệm của bọn Việt cộng trong mọi lãnh vực và cái hậu quả vô cùng tai hại mà người dân phải gánh chịu bởi sự làm việc tất trách vô trách nhiệm ấy. Vừa mới đây thôi, có nghĩa là cách ít tháng trước khi tôi ngồi viết đoạn văn nầy, một chuyện vô cùng thương tâm, đau đớn đã xãy ra ( khoảng tháng 08 năm 2012 ) trong gia đình ông thông gia của một người thân quen của tôi. Ông nầy cởi xe gắn máy đi trên một con đường trong thành phố Sài gòn đang cơn mưa. Như vậy thì đâu có gì thương tâm để nói! Chuyện thương tâm đáng nói và đáng nguyền rủa là vì đảng Cộng sản Việt nam, cầm đầu là hồ tặc đã sinh ra một lũ tay chân bộ hạ vô cùng hèn nhác “ác với dân, hèn với giặc”, từ trung ương đến địa phương, từ thượng tầng cơ sở đến hạ tầng cơ sở, tất cả chỉ lo nạo vét tài sản của đất nước, của nhân dân bỏ cho đầy túi tham không đáy của chúng bất kể đất nước có cơ nguy biến trước nạn xâm lăng của Tàu cộng hay nhân dân có sống lầm than khốn khổ. Bọn chúng chỉ một nuộc như nhau, người người tham nhũng, ngành ngành tham nhũng nên người dân phải gánh lấy đau thương. Sau chiến tranh, Việt nam Cộng sản đã ngã tay nhận biết bao nguồn tiền của các quốc gia trên thế giới gởi cho để tái thiết quốc gia, xây dựng cơ sở đường sá mà trong thời chiến tranh Nam Bắc, chính bọn họ là lũ phá hoại. Thế nhưng hầu hết số tiền ấy được chia nhau vào nằm trong túi tham của bọn cầm quyền lớn nhỏ, chỉ đem một ít tiền để sửa chữa đường sá, vì vậy nhiều sự kiến thiết cầu đường chỉ được làm nửa vời vì thiếu kinh phí. Chính vì vậy ngay tại Sài gòn, một số con đường bị bỏ dở nửa chừng, lý do chờ kinh phí mới. Chúng đào bới đường xá có những lổ hổng rất sâu, cứ để như vậy không lấp lại, cũng không cấm bảng báo hiệu coi chừng nguy hiểm. Sài gòn hôm nay quá đông dân vì gia đình bà con dòng họ của lũ cán bộ ngoài Bắc tràn vào theo đuôi chúng chiếm muốn hết Sài gòn. Vì là gia đình bà con của Việt cộng nên chúng dựa hơi mua đất với giá cung cấp, là giá rẽ dành cho cán bộ, rồi xây nhà cao tầng nhan nhãn khắp nơi.
Vì kỷ thuật của bọn thầu xây cất quá kém nên gây ra cái nạn không thoát nước khi mưa, cho nên mổi lần có một trận mưa hơi lớn là nước tràn ngập đường phố. Ông sui gia của bạn tôi bị sập xuống một lỗ sâu giữa đường ngập đầy nước, lỗ khá sâu nên bị sập xuống rất mạnh, đầu va chạm và chết ngay tại chổ một cách tức tưởi, khi tuổi mới sáu mươi.
Lũ công an vội chiếm xác ông ta đem ngay đi, khi người nhà biết được hung tin tìm đến nơi thì bọn đó nói với họ rằng muốn đem xác đem về mai táng thì phải viết một tờ giấy cam đoan không được khiếu nại, kiện tụng gì cả; nếu không viết giấy cam đoan thì không giao xác lại. Vì muốn đưa xác ông về chôn cất, người nhà đành phải viết giấy cam đoan như ý chúng nó. Ông nầy là người trí thức, là giáo sư Đại học, vợ mất sớm, ở vậy nuôi dạy hai đứa con, một trai, một gái. Cô gái lớn gả cho con trai của bạn tôi và qua Mỹ theo chồng được ba năm nay. Cô rất yêu thương cha và em nên vừa đi làm kiếm tiền sinh sống, vừa lo học thêm Anh văn để thi quốc tịch với ước muốn bảo lãnh cha và em qua Mỹ đoàn tụ. Khi nhận được hung tin, cô gái khóc lóc thảm thiết và ngất xỉu mấy lần. Bạn tôi vội mua vé máy bay cấp tốc để cho vợ chồng con trai về VN kịp nhìn cha lần sau cùng.
Khi biết tin nầy, lòng tôi sao động và buồn phiền mấy ngày. Dân VN là một dân tộc trong luân thường đạo lý, nhất là đám tang, đám cưới phải cố lo cho toàn. Vì vậy khi lũ Công an ra điều kiện như vậy thì chắc chắn thân nhân chịu ký giấy cam đoan liền để nhận xác người nhà về cho sớm để lo tang lễ, tâm lý ai cũng vậy. Vả lại, suy cho cùng, nghĩ cho tận, dù thân nhân không chịu viết giấy cam đoan như ý chúng, cứ để cho chúng giữ xác người thân, nhất định phải kiện thì kiện làm sao? kiện với ai? ở đâu tại Việt Nam có công lý? Với bọn Cộng sản thì luôn luôn “phủ binh phủ, huyện binh huyện”, người dân mà kiện chúng cũng giống như “con kiến kiện củ khoai” thôi.
Sau bao nhiêu năm chúng tôi chồng một đàng, vợ một nẻo, con một nơi xa cách nghìn trùng, nay đã được đoàn tụ dưới một mái nhà, dù chỉ là nhà lá đơn sơ, dù thấy trước mắt khó khăn trong cuộc sống, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Gia đình nhỏ bé của chúng tôi giờ đây đã có bốn người nên chồng tôi muốn ra ở riêng, cất thêm một căn nhỏ, nối liền với cái chái của nhà lớn, cũng chỉ bằng cây nhà lá vườn nên dể thực hiện.
Ở vùng nầy, sau một thời gian dài chiến tranh, người dân rời bỏ ruộng vườn di tản khắp nơi, cùng với sự phá hoại của Việt cộng nằm vùng nên cả một vùng rộng lớn mà rất hiếm nhà bằng xi măng, gạch đá, toàn nhà làm bằng cây, lợp bằng lá dừa nước, vách cũng bằng lá dừa nước.
Tuy cũng có nhiều nhà sạch sẽ, khang trang, nhưng cũng chỉ làm bằng cây và dừa nước, cũng có rất nhiều cái nhà không thể gọi là nhà mà phải gọi là chòi. Tôi nhận thấy người miền Nam sống phóng khoáng chớ không gò bó trong nề nếp, khuôn khổ như người ở quê tôi.
Ở đây, mặc dù hàng ngày chui ra chui vào trong cái chòi nhỏ bé, rách nát, họ vẫn vui vẻ, có tiền là đi mua ngay thức ăn ngon mà ăn, đi ruộng bắt được tôm, cá, chuột, rắn thì đem về nấu nướng, mua rượu rồi gọi bạn láng giềng qua nhậu, lòng họ rông rải thật thà. Còn quê tôi, người ta rất chú trọng đến nhà cửa, kiếm được mười đồng, chỉ ăn vài đồng, số còn lại thì đem cất, dồn để xây nhà, cái nhà là mặt mũi. Ở đây, trong mâm cơm hay mâm nhậu, người ta chỉ chú trọng đến thức ăn, thức ăn phải thật nhiều, phải dư giả, còn tô chén thì sao cũng được, vớ được cái gì thì múc thức ăn vào cái đó, có khi bê nguyên cả cái nồi ra luôn. Còn ở quê tôi thì chú trọng tô chén hơn là thức ăn, dù toàn rau đậu cũng phải múc vào những chén tô đẹp, nhà giàu thì sắm tô chén kiểu đắt tiền, nhà nghèo thì xài tô chén kiểu giả, rẻ tiền nhưng nhìn cũng đẹp.
Nói cho cùng, những miền quê của miền Tây Nam bộ nay không còn nhà ngói nhà gạch nữa cũng đúng, bởi vì thời kỳ kháng chiến chống Tây, Hồ Chí Minh đã cướp công của những người yêu nước chống Tây tự phát miền tây Nam bộ, đã ra lệnh cho dân phải phá bỏ hết nhà gạch ngói, gọi là “tiêu thổ kháng chiến”, đừng để cho Tây chiếm làm căn cứ cho nên lúc đó dù nhà giàu có cũng phải ra ở chòi. Nhưng theo ý tôi thì lão ta thấy miền Nam trù phú, dân chúng ấm no, nhà cao cửa lớn, nên nóng mặt, muốn phá hủy để cho dân miền Nam cũng nghèo nàn cực khổ như dân miền Bắc mà thôi. Chớ nếu Pháp muốn xây dựng căn cứ, đồn bót ở địa điểm nào, dù nơi đó là đồng không mông quạnh mà có lợi điểm thì chúng vẫn đem vật liệu đến mà xây đồn bót để làm căn cứ như cần gì nhà gạch của dân. Hồ Chí Minh thật là đồ phá hoại đáng nguyền rủa muôn đời!
Vườn của nhà chồng rất rộng nhưng đã bỏ hoang từ lâu nên trông hoang vu như một mảnh rừng, nghe nói trước kia đây là một cái vườn đẹp có tiếng ở vùng nầy, trồng nhiều loại cây ăn trái như dừa, xoài, cam, quit, ổi, khế, mãng cầu xiêm, mãng cầu ta v..v.., liếp nào ra liếp đó, có mương thẳng tắp chia rang giới liếp nầy và liếp kia, dừa trồng dựa mé chung quanh các liếp để giử đất, vườn nằm phía bên kia sông, sâu vào trong ruộng, xa cách con đường quốc lộ về thị xã tỉnh Trà vinh chừng hai cây số, phía bên nầy sông Mỹ Huê là đất giồng, dân ở nhiều, làng nầy nối tiếp làng kia, gần đồn bót lính quốc gia, sự đi lại dể dàng nên Việt cộng không phá hoại được, còn phía bên kia, tức là vùng mà gia đình chồng sinh sống thì vườn và nhà dân nằm dài dọc theo con sông, một phía sát bờ sông, toàn là dừa nước rậm rì rậm rịt chạy dài dọc theo bờ sông, phía bên nầy là đồng ruộng mênh mông chạy tít xa chân trời, chỉ có một con đường đất độc đạo đưa dân đi ra chợ, vì vậy vùng nầy rất thuận lợi cho bọn Việt cộng nằm vùng làm hang ổ, ban ngày chúng chui rúc xuống hang ẩn núp, có gia đình, bà con, đồng bọn tiếp tế lương thực một cách tự nguyện do tình yêu thương hoặc dân chúng trong vùng tiếp tế lương thực một cách cưởng bức do khủng bố, ép buộc, ban đêm chúng chui ra khỏi hang đi phá hoại cuộc sống yên lành của người dân.
Ngay phía dưới liếp quít nằm sát con xẻo sâu ăn thông ra sau vườn nhà chồng, Việt cộng đã xây dựng một cái hầm kiên cố đễ làm sào huyệt của ban chỉ huy đầu não khi gia đình chồng bỏ vườn về thị xã Trà vinh sinh sống. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã một lần vào tận nơi đễ càn quét chúng, muốn được trống trãi nên họ đã đốn phần cây cối trong vườn.
Sau 1975, gia đình dọn trở về nơi nầy thì vườn đã hoang tàn lắm, những cây ăn trái đã trồng trước chỉ còn sót lại vài ba cây nằm rãi rác xa nhau chen lẫn giữa đám cây mù u tự mọc xum xê như rừng, phía đầu vườn nằm sâu trong vườn còn sót lại hơn chục cây dừa lão cao lêu nghêu và ốm nhách rất khó hái trái. Cái nhà lớn ngày xưa nay chỉ còn lại độc cái nền đầy cỏ mọc trông thật điêu tàn! Có một cây xoài rất lớn bị bom bứng nguyên gốc bay xa đến gần nữa vườn, thân nằm vắt ngang một con mương nước chảy nên nhà chồng cứ đễ nguyên như vậy làm cầu qua lại.
Khi tôi về thì cây vẫn còn xanh tươi, mặc dù rễ phụ nằm chằng chịt trên mặt đất, chỉ có rễ cái và vài ba rễ phụ khác chui xuống phía dưới đất, thế mà đến mùa cây vẫn đơm hoa kết trái, tuy ít hơn những cây xoài đứng thẳng, nhưng vẫn có ít nhất là vài chục trái, tôi chỉ vần cúi hơi khom xuống mà hái chớ chẳng cần dùng đến cây sào để móc lay leo trèo gì cả. Tôi gọi cây xoài nầy là “xoài nằm”. Thời Đệ nhất Cộng Hòa, nhờ có “ấp chiến lược”của Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và “khu trù mật” của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hai chiến lược tuyệt vời đó đã làm cho Việt cộng khó mà ra tay khủng bố, phá hoại, ngày đêm cứ chui rút trong mấy cái hang mà ẩn núp như chuột, dù có đói meo cũng không dám bò lên, cũng vì vậy, trong khoảng thời gian nầy, đâu đâu cũng đón nhận hàng đoàn Việt cộng chiêu hồi.
Nhưng sau khi anh em Ngô Tổng thống bị bè lũ sư sãi Phật giáo Ấn quang nối giáo cho giặc, đánh phá, vu khống và bọn tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa ngu dốt phản bội, vì chuyện riêng tư ra tay giết hại. Dương văn Minh, tướng đầu bò, có đầu mà không có óc, ra lệnh triệt hạ hết ấp chiến lược và khu trù mật trên cỏi miền Nam Việt nam thì bọn Việt cộng mừng còn hơn trúng số độc đắc, từ đó chúng khủng bố phá phách trở lại. Cứ màn đêm buông xuống thì chúng xuất hiện như những hung thần, quỉ dữ, bắ dân đi đào hố, đắp mô, gài mìn chôn chông, xe jeep quân đội VNCH không thễ vào được đã đành, mà dân làng đi ra chợ mua bán gì cũng đạp chông, trúng mìn, người bị chết, người bị thương tật nên dân làng không dám đi con đường ấy nữa. Muốn đi chợ thì bơi xuồng ra chợ, hay bơi xuồng đâm ngang qua bên nầy sông, cột xuồng lại ở bến nhà người quen, rồi đi ra chợ bằng con đường bên giồng, cũng vì vậy mà con đường nầy càng ngày càng teo tóp lại, lồi lên lõm xuống tùm lum, không ra con đường nữa.
Sau tháng tư đen, nhưng gia đình đã rời bỏ ruộng vườn đễ di tãn đi tứ tán cũng đùm túm trở về lại mãng vườn cũ te tua của mình để dọn dẹp, xây dựng từ đầu. Con đường đầy khủng bố kia cũng được dân làng góp công sức, tiền bạc tu sửa lại, có thể đi bộ, xe đạp hay xe Honda ra chợ. Do vậy, có nhiều gia đình bỏ những nền nhà cũ nằm sâu phía trong đễ cất lại nhà khác ngoài mặt đường, nhà chồng tôi cũng vậy, cái nền nhà cũ khá rộng nằm sâu cuối vườn, phải nói thời gian trước là đầu vườn, nay để cho cỏ dại mọc, cất nhà nằm sát đường đi. Dù đang chỉ là con đường đất nhỏ hẹp, gồ ghề thiếu sự bằng phẳng, nhưng hàng ngày biết bao chục lượt người qua lại, nên cũng vui, cũng tạo sinh khí cho làng.
Ngay phía sau căn nhà mới cất là cái ao khá rộng, ăn thông với con lạch chảy ra sông nên nước đầy, nước cạn tùy theo nước lớn, nước ròng của sông. Gia đình chồng múc nước trong ao nầy để dùng, tắm giặt hàng ngày. Trước kia, đây không phải là cái ao như hôm nay mà là một liếp đất liền trồng cây ăn trái, quân đội Mỹ đã thả một trái bom nhỏ xuống đễ tiêu diệt bộ nảo của Việt cộng địa phương nên mới thành cái ao nầy.
Những ngày đầu tiên về đây, tôi không dám rửa mặt, gội đầu bằng nước trong ao, thậm chí cũng không dám rửa chân tay vì thấy nước đục ngầu, tôi nghỉ là nước rất dơ, chỉ dám dùng nước đã lóng phèn trong lu khạp nên nước trong veo. Ở quê tôi, nước sông, nước đầm, nước ao hồ gì cũng trong nên lần đầu thấy nước sông hồ ở đây đục, tôi nghỉ là dơ, nhưng sau nầy tôi biết nước ở đây rất sạch vì nước ròng, nước lớn mỗi ngày nên thay đổi mỗi ngày, sở dĩ đục là vì trong nước có mang phù sa của vùng đồng bằng sông Cửu long.
Khoảng thời gian tôi về vườn thì miệt vườn chưa có điện, chỉ ở ngoài chợ có mà thôi, nên trong nhà phải thắp đèn dầu hột vịt khi đêm xuống, ánh sáng tỏa ra một màu vàng heo hắt thật khó chịu. Cửa hàng mậu dịch quốc doanh huyện chỉ bán dầu theo tiểu chuẩn tem phiếu rất hạn chế, nên nhà nào cũng phải dùng đèn dầu hột vịt để tiết kiệm dầu. Có một số gia đình lượm trái mù u ép lấy dầu để đốt, dầu mù u không thể dùng cho loại đèn có “cái bầu” như đèn hột vịt nên người ta phải lấy cái dỉa sâu, đổ dầu mù u vào rồi đặt cái tim dài cho nằm khoanh tròn trong dĩa dầu, chỉ để một phía đầu tim chìa ra khỏi miệng dĩa, thắp đèn dầu mù u như vậy ánh sáng chỉ tỏa ra một khoảnh không gian nhỏ có màu vàng mờ mò và khói bay tùm lum.
Thời gian nầy, cuộc sống của người dân khố khó lắm, thiếu thốn đủ thứ, dù có tiền cũng không thể mua được nhu cầu cần thiết vì không có bán bên ngoài. Mọi cái dù lớn dù nhỏ, thậm chí đến cây kim sợi chỉ cũng phải mua theo tem phiếu ở cửa hàng quốc doanh, mà tem phiếu thì có giới hạn theo tiêu chuẩn chia cho mỗi người hàng năm, có một số mặt hàng phải mua hai năm dồn lại mới đủ dùng cho một người, hoặc trong gia đình nhường lại cho một người dùng trước, người khác thì chờ năm sau, như vải may quần áo chẳng hạn, cắt tem phiếu mua thì mỗi năm tiêu chuẩn cho một người chỉ được hai mét, không đủ may một bộ đồ, vì vậy phải chia ra, năm nay người em được may, sang năm đến phiên người chị may.
Có một chuyện xảy ra mới nghe thì như chuyện khôi hài nhưng là sự thật 100%. Trong một xóm đạo nọ, có một bà đã lớn tuổi tỏ ra bất mãn nhà nước ra mặt bởi vì bà người Bắc di cư vào Nam năm 1954 nên biết rất rỏ cái bản chất xấu xa của Việt cộng. Một ngày kia, dân chúng trong khu phố của bà phải tập họp lại để “học tập” trong sân trường cấp I mà bọn cán bộ phưòng lấy làm nơi tụ tập đông nghẹt những người và người, già trẻ trai gái gì cũng có, đầy đủ những khuôn mặt của từng gia đình trong xóm, vì tên công an địa phương đã cất công tới từng nhà “nhắc nhủ”, trong lời nhắc nhủ vừa hàm ý nhắc nhủ vừa hàm ý hăm doạ, vì vậy không ai dám không tới, mặc dù trong lòng không ai muốn đi cả. Dân chúng thì ngồi xổm dưới đất nhìn lên, còn cán bộ thì ngồi chễm chệ trên dãy ghế phía trước nhìn xuống, họ đang chuẩn bị mở đầu buổi học tập vì trời cũng khá tối rồi, thì một bóng người từ phía ngoài lẫn thẫn đi vào, bước đi chầm chậm như kiểu đi bắt bướm hái hoa chứ chẵng có gì hấp tấp như kẽ đi trễ. Khi người đó đến gần, tất cả cặp mắt của những người đang có mặt ở đây đều hướng về người đó, rồi những tiếng cười òa vở ra như xé nát không gian im lặng và căng thẳng khi thấy người vừa mới vào đang mặc chiếc quần dài với hai ống ngắn củng cởn “chó táp bảy ngày không tới” có hai màu khác nhau “một trời một vực”, một ống quần thì màu đen, ống bên kia thì màu trắng. Tiếng cưòi của dân chúng chưa dứt, một tên cán bộ phường nạt lớn:
- Im, có gì mà cười.
Rồi quay sang, nhìn người mới đến và nói:
- Bà Tám, làm gì mà đến trể quá vậy?
Sau đó hắn lên giọng trách:
- Bà Tám ăn bận gì kỳ cục vậy, bộ bà Tám muốn bêu riếu nhà nước có phải không?
Bà Tám đứng khom khom, hai tay xoa vào nhau và trả lời:
- Thưa cán bộ, tôi đến trể vì tôi phải ráng bán hết mẹt bánh mới đủ tiền mua rau mắm đắp đổi qua ngày nên về nhà rất muộn, về nhà là tôi chạy đến đây ngay. Còn cán bộ nói tôi biêu riếu nhà nước thì oan cho tôi quá, gan tôi đâu đủ lớn mà biêu riếu nhà nước.
Cán bộ phường lớn giọng:
- Không biêu riếu sao bà mặc cái quần ống đen ống trắng như vậy.
Bà Tám thủng thẳng trả lời:
- Cán bộ nghĩ coi, mỗi năm tiêu chuẩn tem phiếu mỗi người mua được hai mét vải đâu đủ may, nên phải dồn lại hai năm mới may đủ. Cửa hàng quốc doanh bán mỗi năm mỗi khác nhau, năm nay vải đen, năm sau vải trắng vì vậy tôi mới có quần ống đen ống trắng.
Cán bộ phường vẫn chưa chịu thua:
- Nhưng bà không được mặc quần nầy đến họp khu phố.
Giọng bà Tám vẫn ôn tồn:
- Thưa cán bộ, trước năm 1975 tôi có may nhiều áo quần, nhưng từ sau năm 1975 không đủ vải để may thêm đồ mới, số đồ cũ thì cứ mặc hoài, mặc rồi giặt, giặt rồi mặc, vì phải giặt bằng nước tro nên vải bị mục, áo quần rách hết, tôi đâu còn cái quần nào ngoài cái quần nầy, không lẻ đến chổ quan trọng như vầy mà để tô hô như ông Adam, bà Eva trước khi ăn trái cấm ấy à!
Mặc dầu cái mặt của những cán bộ khu phố đằng đằng sát khí, nhưng mọi người không thể nín cười được nên đồng loạt òa ra cười, cười lăn cười bò làm cho khu phố nhộn nhàng lên và những tên cán bộ phường tức bực thêm. Trước khi hòa nhập với đám đông dân chúng đang ngồi bẹp dưới đất, bà Tám nói:
- Thưa cán bộ, tôi rất vui sướng được mặt chiếc quần mới nầy vì đây là nhờ nhà nước lo cho dân nên dân mới có bo bo để ăn và quần ống trắng ống đen để mặt.

Ở vùng thôn quê miền Tây mà nằm sâu trong ruộng thì vấn đề đi lại thật là bất tiện, ở nhà lá nền bằng đất nên trông không được khang trang, sạch sẽ, tôi cố gắng dọp dẹp gọn gang, may những tấm màn cửa bằng những miếng vãi vụn nối lại với nhau, sao cho mỹ thuật để khi treo lên nhìn những màu xanh xanh, đỏ đỏ cũng vui mắt. Vì đã có một gia đình riêng nên chồng tôi xin với ba chồng chia lúa ăn riêng, chia ruộng làm riêng, chúng tôi sống tự túc từ đó.
Thật ra mấy năm trước, kể từ khi chồng tôi rời trại tập trung cải tạo về với gia đình, thì chồng tôi là lao động chính trong gia đình, có hai đứa em nhỏ còn đi học, khi rảnh thì phụ hụ hợ vào việc ruộng vườn vậy thôi, ba chồng thì có gia đình riêng, vợ con riêng nên ông chỉ lo gia đình riêng của ông. Thật tội nghiệp cho chồng tôi, lúc nhỏ chỉ biết ăn học, khi lớn lên thì gia nhập quân đội làm sĩ quan binh chủng Hải quân, đâu có biết làm ruộng, đâu có khi nào chân lấm tay bùn, nhưng bây giờ đã đổi đời, thú vật lên lãnh đạo đất nước nên mọi việc đều bị đảo lộn, ông trở thành thằng và thằng trở thành ông nên tấm thân chồng tôi mới bị đày đọa tủi nhục. Lúc tôi về sống hẳn dưới quê, các cậu mợ của chồng thường nói với tôi về sự thương cảm và khâm phục của họ đã dành cho chồng tôi, mấ năm trời lam lũ làm ruộng, nuôi heo, nuôi gà, bán lấy tiền trả hết số nợ mà ba chồng đã thiếu người ta.
Việt cộng là chúa tể về sự khủng bố, nói láo và lợi dụng, vì ba chồng là người thật thà, chất phát nên bọn cán bộ, huyện, xã luôn luôn lợi dụng ông. Số là trước năm 1975, ông Nguyễn văn Hảo, một nhà kinh doanh giàu có nổi tiếng ở Sài gòn, chủ rạp hát Nguyễn văn Hão, không hiểu vì lý do gì, ông về quê chồng tôi mua đất xây chùa rồi cúng dường cho Phật giáo. Ngoài ngôi chùa rộng lớn, nguy nga còn có thêm mấy chục công ruộng để cho nhà chùa trồng lúa lấy gạo mà ăn. Dân địa phương đi thỉnh một ông sư về trụ trì, chẳng may sư kia là Việt cộng nằm vùng. Từ từ, an ninh quân đội cũng biết, theo dõi mọi hành động của ông ta. Khi nắm chắc bằng chứng trong tay, định bắt giam thì ông sư lấy kinh kệ, chuông mỏ bỏ vào tay nải nửa đêm lén trốn đi mất, và trốn đi đâu không ai biết.
Thời ấy, rất nhiều chùa trong miền Nam có sư trụ trì là Việt cộng hay thân cộng, cho nên sư Việt cộng chùa Nguyễn văn Hão được che dấu, biệt tích là chuyện dể dàng!
Sau tháng tư đen, cả miền Nam bị Việt cộng nhuộm đỏ, thì tên Năm Ngọc, là Việt cộng gộc nằm vùng ở huyện Càng Long, sai ba chồng tôi lặn lội đi tìm ông sư hổ mang kia để rước về chùa trở lại, sai thì sai nhưng không đủ phí tổn đi đường, vì vậy ba chồng phải bán đi mấy chỉ vàng hai bốn của má chồng để lại, lấy tiền đi đường, đi nhiều lần, mổi lần ròng rả cả tuần lễ, vì vậy ruộng vườn không có ai làm, mấy đứa em thì nhỏ còn đi học, do đó phải mượn tiền, mượn lúa của bà con mà ăn trong mấy năm trời, nợ nần chồng chất. Khi chồng tôi từ trại tù cải tạo Bùi gia mập trở về, chịu sự quản thúc của cán bộ địa phương, sống chung với các em nên bắt buộc phải trở thành cột trụ của gia đình. Ba chồng cất công đi tìm ông sư kia như thể tìm chim, nghe phong phanh là ông sư kia ở Tây Ninh, Hóc Môn gì đó, ba chồng cũng lặn lội lên đó tìm, cuối cùng cũng chỉ là công cốc dã tràng mà thôi.
Khi tôi về dạy ở quê chồng thì chùa Nguyễn văn Hão đã biến thành nhà thương rồi, trong đó cũng có nhà thuốc tây nhưng thấy trưng bày toàn thuốc tím, thuốc xanh xức ghẻ, thuốc ký ninh trị sốt rét, nhiều nhất là thuốc xuyên tâm chuyên trị bá bệnh.
Trường cấp III Càng Long tọa lạc trong một khuôn viên không rộng lắm, nằm ngay trên đường quốc lộ, khoảng giửa cua cầu Mỹ Huê và quân Càng Long. Trước năm 1975, đây chỉ là trường cấp II ( Đệ nhất cấp ). Học sinh học hết lớp cuối thì phải về thị xã Vĩnh Bình hay đi lên huyện Vũng Liêm thuộc tỉnh Vĩnh Long để học tiếp cấp III (đệ nhị cấp).
Sau năm 1975 thì trường nầy được nâng lên thành trường cấp III, còn trường cấp II thì chung với cấp I, gọi là trường cấp I và II Mỹ Cẩm, nằm đối diện chợ Càng Long. Trường cấp III chỉ có hơn mươi phòng học nằm trên miếng đất không rộng lắm, vì trước kia chỉ là trường cấp II của huyện nên phòng ốc không được khang trang. Phía sau là nhà ông năm Triệu, một nông dân địa phương. Nhà không có hàng rào làm ranh giới, chỉ có bụi tre ngăn cách giửa đất của trường và vườn của họ mà thôi. Đứng trong nhìn ra, phía tay phải thì trường giáp với một miếng vườn khá rộng nhưng không thấy trồng cây trái gì có huê lợi cả, phía tay trái giáp với con đường dất nhỏ dẫn vào nhà ông năm Triệu. Trước mặt là đường quốc lộ, phía bên kia là đồng ruộng mênh mông, không có nhà dân. Sát phía trước cổng trường, bên cạnh con đường đất vào nhà ông năm Triệu, một cặp vợ chồng tuổi quá so le cất nhà ở với hai đứa con gái nhỏ, tuổi độ mười, mười hai. Đó là nhà của ông năm Hoài và chị năm Hoài.
Tại sao chúng tôi gọi ông năm Hoài bằng ông mà gọi vợ ông bằng chị? Tại vì họ quá so le về tuổi tác, lúc đó ông năm Hoài đã gần bảy chục, còn chị năm Hoài mới chỉ hơn bốn mươi. Tôi rất lấy làm tiếc cho chị Năm vì chị Năm cũng khá xinh đẹp lại giỏi buôn bán nửa, còn ông Năm, gốc nông dân miệt vườn nên dáng quê mùa cục mịch, đã có bà vợ già và bầy con trang lứa với chị Năm, họ ở cũng xung quanh đây nhưng nằm sâu trong xóm, ông Năm chỉ ở với ba mẹ con chị Năm ngoài nầy, trong căn nhà lá nhỏ như cái chòi, hai đứa con gái kia là con riêng của chị Năm. Tôi và bạn tôi là cô Hồng, giao thiệp qua lại khá thân với chị Năm, nhưng vì tế nhị, chúng tôi không hỏi nguyên cớ vì sao chị lại đem “hoa lài cắm bải cứt trâu” như vậy cho nên trong lòng cứ mang nổi thắc mắc như vậy cho đến bây giờ. Hằng ngày, chị Năm đi sâu vào trong xóm, trong làng tìm mua gà, vịt rồi mang ra chợ bán sĩ cho bạn hàng.
Anh hiệu trưởng là người Quãng Ngãi, nên khi biết tôi là người Huế, cảm thấy gần gủi vì cùng là người miền Trung với nhau. Nhờ tôi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm, lại qua 3 năm kinh nghiệm giảng dạy lớp lớn nên anh rất tin tưởng khả năng của tôi, phong cho tôi chức tổ trưởng tổ xã hội và giáo viên chủ nhiệm ( giáo sư hướng dẫn ) lớp 12A.
Giáo viên hầu hết đều còn trẻ và từ xa đến nên phải ở nội trú. Cũng giống như trường cấp III Tân Uyên, nhà trường không có cư xá nên phải lấy nguyên bốn phòng học phía bên tay phải làm phòng cho giáo viên ở. Nam ở một phòng, nữ ở một phòng, gia đình anh hiệu trưởng ở một phòng, phòng còn lại thì làm văn phòng nhà trường. Anh Ninh, phó hiệu trưởng, lập gia đình với cô Ngọc Hồng, được gia đình cô giúp đở mua nhà gần cầu Mây Tức nên không phải ở chật chội trong trường. Đối với các thầy cô ở đây thì tôi cũng đáng làm đàn chị vì tôi có gia đình, có con cái trước cũng như ra trường đi dạy trước.
Thời gian đầu, tôi ở trong vườn, hàng ngày phải đi bộ ra trường khoảng hai cây số, tuy con đường không xa lắm nhưng đi thật là vất vả, vì đây là con đường đất thịt, hể trời mưa thì mặt đường trơn như thoa mỡ, dân địa phương sanh ra và lớn lên ở đây, họ đi quen nên không bị té, họ đi chân đất, mười đầu ngón chân quặm lại bám vào mặt đường đất rất trơn và bước đi những bước vững chãi. Còn tôi, đây là lần đầu tiên về ở nhà quê, đồng ruộng miền Tây, phải đi trên con đường đất trơn trợt như thoa mỡ như vậy thì thật là vô cùng vất vả.
Tôi có thói quen mặc áo dài đi dạy, mấy năm dạy trên miền núi Phú giáo, tỉnh Sông Bé cũng vậy, mặc dù tiêu chuẩn mỗi người chỉ được mua hai mét vải mỗi năm, không thể may gì được, nhưng số quần áo củ của tôi trước kia vẫn còn dù đã bị người ta vào nhà lấy khi gia đình di tãn khá nhiều, cũng như khoãng thời gian về thăm gia đình chồng sau khi ẳm con về Huế vào Sài gòn dò hỏi thăm tin tức chồng không được, thấy các đứa em chồng thiếu áo quần mặc, đành lòng không được nên tôi lấy những chiếc áo dài của tôi ra cắt rồi cặm cụi ngồi may những chiếc áo, chiếc quần cho các em chồng mặc.
Sau năm 1975, mặc dù cuộc sống vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn, tôi vẫn muốn gìn giữ nề nếp, tư cách của một cô giáo nên giờ đây tôi mới bị phiền phức nhiều. Hai ống quần phải xắn cao lên bắp vế, hai tà áo dài phải cột lại, quấn ngang quanh bụng, nên khi sổ xuống thì bị nhăn nheo quá.
Bây giờ nhớ lại cái “tuớng” của tôi khi đi trên con đường đất trơn như xối mở ấy mà tức cười và xấu hổ, ban đầu không muốn cởi giày, cứ mang mà đi, đi được một đoạn thì bùn non bám vào đế giày thành một lớp dầy trình trịch khó bước vô cùng, nên dù muốn dù không cũng phải tháo giày mà xách rồi đi chân đất như người ta nhưng mà sao khó khăn quá, lần đầu tiên đi chân trần trên con đường đất, hai lòng bàn chân lành lạnh, ngai ngái rất khó chịu, lại còn lo sợ đạp mãnh chai, đá nhọn, võ sò, võ ốc nên phải e dè từng mỗi buớc chân, thêm đất thịt, sau cơn mưa thì trơn quá, bước chân cứ xòe ra như trượt ba-te, không theo mình điều khiển, dù cố gắng bước thật vững, cũng bắt chước mấy ông mấy bà địa phương, quặm mười đầu ngón chân lại mà bước, thế nhưng vẫn không được như ý, cứ đi được năm, mười bước thì té ạch một cái, làm áo quần lắm lem, có nhiều lần phải nhờ dân chúng đi cùng giúp đở, bằng cách họ nắm cánh tay tôi hay tôi vịn vào vai họ mà bước, một đoạn đường chừng nửa cây số mà đi không biết bao lâu mới qua khỏi. Khi lên được đường quốc lộ, phải lo tìm vũng nước để rửa tay chân, vụt hết bùn ở áo quần cho sạch rồi mang giày đi bộ đến trường, nhờ tôi đi chậm nên đến trường thì áo quần cũng khô. Trên đường đi, rất nhiều người nhìn thấy tôi mặc áo dài, họ đều thốt lên: “Ồ! Đã lâu lắm nay mới thấy chiếc áo dài lại”.
Khi Việt cộng chiếm miền Nam, họ đả làm cho cuộc sống của dân miền Nam trở thành nghèo nàn, lạc hậu thiếu thốn trăm bề, lúc đó, đàn bà con gái không còn ăn mặc như xưa, quanh năm suốt tháng chỉ mặc cái quần đen và áo cụt may bằng vải nội hóa mỗi khi ra đường. Hầu hết trong các công sỡ, hảng xưỡng đều mặc như vậy hết, ai sang lắm mới mặc quần tây và áo sơ-mi, ngay các trường học cũng vậy, phần lớn các cô khi đến lớp chỉ mặc quần đen, áo bà ba, nhưng riêng tôi, ngay năm đầu tiên đi dạy tôi đã mặc áo dài màu với quần may bằng vải xa xị trắng hay xoa Pháp đen.
Trường đầu tiên tôi công tác chỉ có ba cô giáo, cô Hạnh là người Sài gòn nên cũng mặc áo dài đến lớp như tôi, còn cô Cúc, người Bình Dương, vì muốn làm đoàn viên gương mẫu nên chỉ mặc quần đen áo sơ mi đi dạy, được ông Sáu Khá, Trưởng ty giáo dục Sông Bé khen: “cô này tốt, vì yêu chuộng đồ nội hóa”. Còn tôi và cô Hạnh thì bị chê: “các cô nầy còn vọng ngoại”. Bây giờ về dạy một trường ở vùng quê, thấy vài cô còn mặc quần đen áo bà ba, còn tôi vẫn mặc áo dài vì đã trở thành thói quen rồi, bởi vì tôi thấy đứng trước nam nữ học sinh lớp mười một, mười hai để giảng bài mà mặc áo cụt thì không có vẽ trang nghiêm. Cũng bởi như vậy nên khi về vùng quê miền Tây nầy làm cho tôi khốn khổ, buổi chiều hay buổi tối nào có mưa dù ít hay nhiều cũng khiến tôi lo buồn lắm, cứ nghĩ sáng mai phải bị “trượt ba te” hay “chụp ếch” mà ngán ngẩm. Tại sao người ta bước đi mạnh bạo thế, vững chải thế! Còn tôi thì đi nghiêng ngã như em bé mới tập đi trông thật là thảm hại!
Chỉ một thời gian ngắn thôi, coi bộ đi dạy bằng “vê lô ca chân” trên con đường đất mà mặt đường tép tóp và trơn trợt như vậy bất tiện và mất thời giờ quá nên chúng tôi thay đổi “chiến thuật”. Sáng sớm, chồng tôi bơi xuồng đưa tôi qua sông rồi tôi đi bộ đến trường, con đường bên nầy cũng chỉ bằng con đường đất chưa được tráng nhựa nhưng là đất giồng pha cát nên dù có mưa cũng không trơn trợt giống như con đường bên kia phía vườn nhà chồng tôi, bận về thì tôi cuốc bộ từ trường về cũng bằng cũng bằng con đường bên giồng nầy, đến đoạn ngang với nhà, tôi phải đi trên mấy bờ ruộng giồng, len lỏi vào vườn nhà một người quen là ông Ba Nhiều, đã có chồng bơi sẵn xuồng đễ chờ đón tôi về, biện pháp nầy cũng bất tiện vì chồng tôi chẳng làm được gì cả, chẳng dám vào ruộng xa vì cứ phải trông ngóng xem đồng hồ mà bơi xuồng qua sông đón tôi, có những lúc tôi phải ở lại để họp bất ngờ không báo trước, chồng tôi phải ngồi chờ mỏi mòn, thời ấy đâu có điện thoại cầm tay hay điện thoại bàn như bây giờ đâu mà gọi báo cho biết! Vì vậy, cũng chỉ được một thời gian ngắn, tôi lại nghỉ cách khác khá hơn, đó là tôi tập bơi xuồng và tự bơi xuồng qua sông cả lượt đi và về hàng ngày.

Trước năm 1975, tôi đã biết lái xe jeep vì ba tôi có hai chiếc xe hơi, một chiếc Peugeot, chiếc lia là xe Jeep. Ba tôi đã tập cho tôi lái xe Jeep và tôi đã tự lái rất vững tuy chưa thi lấy bằng. Có một lần, chú tài xế lái xe Jeep đưa ba tôi xuống phi trường Phú Bài để vào Sài gòn, có mẹ tôi và tôi đi theo đưa tiển, lúc về lại Huế thì tôi dành lái, tôi mà cầm tay lái là phóng ào ào làm chú tài xế và cả mẹ tôi sợ dựng tóc gáy, mẹ tôi bảo rằng: “thôi con ngừng lại để mạ kêu xe taxi chở mạ về”, thế nhưng cuối cùng tôi cũng đưa cã hai người về đến nhà bình yên, còn xe gắn máy của Nhật thì tôi có cả thảy ba chiếc, một chiếc Honda dame, một chiếc Yamaha, một chiếc loại PC, tôi chạy xe gắn máy từ lúc tôi học đệ tứ trường Đồng Khánh và chạy rất vững, phóng như bay để cắt mấy cái “đuôi” theo mỗi ngày tan học, có một lần tôi cũng bị cái “đuôi” theo sát và cái “đuôi” nầy cũng thuộc loại chạy xe vững nên tôi khó mà cắt cho được, khi qua ngã tư nọ thì có một đoàn xe tăng của Mỹ chạy ngang dài lắm, chiếc nầy nối tiếp chiếc kia bất tận, các xe lớn xe nhỏ bên nầy bên kia đều ngừng hẳn lại cho đoàn xe tăng kia chạy, vì muốn cắt “đuôi” nên tôi phóng cái ào chen giửa hai chiếc xe tăng chỉ cách nhau một khoảng ngắn để qua bên kia đường, thế là tôi cắt được cái “đuôi” kia. Tôi bị ba tôi đánh đòn oan ức vì mấy cái “đuôi” nên bằng cách nầy hay cách khác, tôi phải cắt đứt cái “đuôi” mới được!
Nói tóm lại, tôi cũng thuộc loại “anh hùng trên xa lộ”, thế mà khi xuống “thủy lộ” để tập bơi xuồng thì thật là mắc cười, tuần đầu khi chồng tôi tập cho tôi lái xuồng, tôi không làm sao điều khiển chiếc xuồng tiến tới theo ý mình được mà nó cứ xoay vòng, xoay vòng một chổ. Lúc đó, tôi nghĩ lái xuồng chắc khó lắm nên thấy mấy người bơi xuồng đi tới ào ào thì tôi phục lắm và bắt đầu nản lòng chiến sỉ định bỏ cuộc. Thế nhưng nghỉ đến chồng đưa rước quá mất thì giờ, nhất là khi đưa rước tôi thì chồng tôi phải đem hai đứa con thơ đi gởi ở nhà mấy mất đứa em gần quanh đó, mà ở vườn thì ai cũng bận, không đi ruộng làm thì ở nhà làm, ra vườn làm, chung quanh nhà thì đầy ao vũng, mương rạch nên tôi thật chẳng yên tâm tí nào, tôi cần phải cố gắng tập, phải lái cho được chiếc xuồng ba lá. Với quyết tâm đó, tôi đã quyết tập, sang tuần thứ hai, tôi đã lái được.
Từ đó, cứ sáng sớm, tôi tự bơi xuồng qua sông, tấp vào bến ông ba Nhiều, cột xuồng vào gốc cây mù u sát bờ, rồi đi bộ đến trường, tan trường thì đi bộ từ trường về bến ông ba Nhiều, lấy xuồng bơi chống về nhà. Vì vậy, trong nhà phải dành cho tôi một chiếc xuồng riêng để tôi xử dụng. Cứ tưởng như vậy là ổn rồi, ai ngờ có nhiều sự việc xảy ra mà tôi không lường được, đó là “nước ròng”.
Buổi sáng khi tôi đi thì nước lớn, tức nước từ ngoài sông cái chảy vào đầy sông đầy rạch nên tôi chỉ xuống xuồng cột sẳn bên hông nhà rồi bơi theo con rạch nhỏ mà dân ở đây gọi là xẻo để qua ngang sông. Hai bên con rạch, dừa nước từng đám chạy dài từ vườn nhà ra tới bờ sông, nhũng bẹ lá bảng to bè bè ngỏng lên cao bên nầy và bên kia, ngọn giao nhau nên con rạch luôn luôn im mát, bơi xuồng len lỏi theo con rạch nhìn lên không thấy rỏ ánh mặt trời, cho tới khi ra sông, nhưng chuyến về thì ôi thôi, vô cùng vất vả vì gặp nước ròng, nước ở trong các con rạch đều chảy ra sông rồi hòa cùng nước sông để chảy ra sông cái nên nước trong sông trong rạch cạn queo, chỉ ở giửa lòng sông có một giòng nước nhỏ, còn lại thì toàn bùn và bùn từ trong bờ ra tới mí nước như cái lòng chảo dài hơn chục mét mỗi bên, lại tuột dốc phía trong thì cao rồi ra thấp xuống từ từ.
Tôi cởi giày ra bỏ vào lòng xuồng, quần vén cao lên quá bắp vế, hai tà áo dài cột lại quấn chặt quanh bụng, song lội xuống bùn mà đẩy xuồng xuống lòng sông nơi có dòng nước nhỏ, khổ nổi là tôi lội bùn không quen, bước tới một bước thì chân lún sâu xuống, vất vả lắm mới rút được chân ra, chân nầy rút ra được thì chân kia bị lún xuống, cứ như vậy tôi hì hà hì hụt lội bùn, rút chân, đẩy xuồng, có lúc chân bị lún sâu đến bắp đùi, phải tìm thế rút chân lên thật quá khổ, mồ hôi mẹ, mồ hôi con tuôn ra ướt cả áo, phải mất rất nhiều thì giờ tôi mới đẩy được chiếc xuồng tới mép nước, vội rửa sơ tay chân, leo lên xuồng, chỉ bơi được ít dầm đã đến mép nước bên kia, lại bước xuống lội bùn, lại rút chân, lại đẩy xuồng. Con rạch vào nhà chồng tôi rất dài nên chỉ đi được ít lần thì tôi phải chào thua, không đủ sức để vừa lội bùn, vừa rút chân, vừa đẩy xuồng cho đến bến nhà được, vì vậy phải hỏi nhờ bến người quen trong làng có xẻo ngắn hơn, đó là bến nhà bác Sáu Tốt để cột xuồng, nhà bác không gần nhà chồng tôi lắm, cũng phải đi bộ một đoạn đường, tuy nhiên bến nhà bác gần sông, cho dù nước có cạn đến đâu thì xẻo vào nhà bác cũng có thể chống xuồng đi được, hay cùng lắm chỉ phải lội bùn một đoạn ngắn để đẩy xuồng mà thôi.
Đi dạy kiểu nầy quá vất vả, ngày nào cũng vậy, khi cột chiếc xuồng vào gốc cây dừa nước ở bến nhà bác Sáu Tốt rồi, tôi cứ để nguyên mặt mũi, tay chân, áo quần lấm lem toàn bùn như vậy, xỏ quai giày vào đầu cái dầm rồi vác lên vai, tay ôm cặp lội bộ về nhà, sau khi tắm rửa xong là nằm xui cẳng, tay chân mỏi nhừ hết muốn làm gì nửa, kể cả ăn cơm tối, chỉ một thời gian vài ba tháng là tôi đuối sức, tuy chỉ mới ở độ tuổi hai mươi tám.
Tôi có thằng em ruột dạy Anh văn tại một trường phổ thông trung học trên Vĩnh Long, thỉnh thoảng về thăm, mỗi lần về đến mé vườn nhà ông ba Nhiều, thay vì gọi bên Cậu Mợ Hai của chồng bơi xuồng qua rước như tôi thì nó tự bơi qua sông, phải bơi qua, bơi về mấy lượt mới tải hết đồ mang về, nó chấp nhận chịu cực khổ cùng tôi. Khi biết tôi phải đi bộ đến trường hơn cây số, nên trong một lần về thăm, nó đem chiếc xe đạp của nó về cho tôi để tôi “làm chân” đi dạy, xe nầy nó mang từ Huế vào để đạp đi dạy vì từ nhà trọ đến trường dù không xa nhưng cũng không gần, nay nó hy sinh, chấp nhận đi bộ nhường xe đạp cho tôi, tình yêu thương chị em của nó làm tôi vô cùng cảm động, cũng giống như lần tôi sanh thằng con trai năm 1979, em trai tôi từ Vĩnh Long xuống Trà Vinh thăm, dúi vào tay tôi một sấp tiền mà em đã mượn trước ba tháng lương để tôi mua đồ ăn tẩm bổ, tôi luôn ghi lòng tạc dạ, sống để bụng, chết mang theo.
Khi có được chiếc xe đạp rồi, chúng tôi tìm nơi để gởi, cũng bên nầy sông chớ con đưòng bên kia sông lổ hang lổ hốc, teo tóp lồi lõm không đi được. Thời buổi nầy chiếc xe đạp rất quí cũng là một “tài sản” của chúng tôi nên phải “chọn mặt gởi vàng”. Phải chọn nhà để mà gởi xe, nhà ông bà Nhiều tuy có tiện lợi hơn, chỉ đâm ngang qua sông là tới, nhưng có lũ cháu nhỏ, sợ chúng nó táy máy tay chân, xe gởi nhà người ta nên không dám khóa, sợ người ta giận vỉ tự ái, nếu tụi nhỏ lén lấy đi, lở bị đụng hư, bắt người ta sửa thì không được mà mình phải tốn tiền sửa thì kẹt cho mình, vì vậy không gởi nhà ông ba Nhiều. May mắn tìm được nhà ông Hai Sinh, có bà con bên ngoại với mẹ chồng tôi, nhà ở tuy xa một đoạn, tôi phải bơi xuồng dọc theo sông một đoạn rồi mới đâm ngang, hơi bất tiện một chút, nhưng đổi lại thì nhà chỉ có hai ông bà già, không có con cháu chi cả, gởi xe rất an tâm.
Từ đó, mổi buổi sáng, tối vát dầm, xách cặp đi bộ đến nhà bác Sáu Tết lấy xuồng bơi qua nhà ông Hai Sinh, cột xuồng dưới bến vào nhà lấy xe đạp đạp đến trường, khi về thì đem xe đạp vào trong căn bếp của ông bà Hai Sinh, ra bến lấy xuồng bơi về nhà bác Sáu Tốt. Sức tôi chỉ chịu đựng được thêm mấy tháng, nhắm kham không nổi về lâu về dài nên chồng tôi có ý định đi tìm nhà ở phía ngoài chợ để mua hay sang lại, gia đình nhỏ bé của chúng tôi sẽ dời ra ngoài ấy để tiện cho tôi đi dạy và con gái lớn đi học mẫu giáo.
Nhờ bác ba gái của chồng tìm kiếm, chúng tôi sang lại được một căn nhà lá nằm sát mé sông nằm giữa chợ và trường của hai mẹ con bà góa nay muốn sang lại để về quê với giá bốn chục giạ lúa.
Đây là một căn nhà lá rách nát, tồi tàn nằm khuất phía sau một đám mía đường rậm rạp, um tùm, ngả nghiêng bên nầy bên kia mất trật tự, lá khô bám đầy tàng cây mía làm cho đám mía u ám vô cùng, gọi là sang nhà chứ không phải mua nhà bởi vì nhà nầy ở đậu trên đất người ta, chúng tôi chỉ sang lại cái xác nhà mà thôi và cũng ở nhờ trên đất người ta mà không có quyền gì trên miếng đất ấy cả.
Một vùng đất rộng lớn ở đây tổng cộng hơn mấy chục mẫu đều cùng một chủ, khi chiến tranh khốc liệt, dân trong mấy vùng ở xa, ở sâu trong ruộng không chịu nổi sự khủng bố, đóng thuế, thủ tiêu của Việt cộng nằm vùng, nên một số lớn đã rời bỏ ruộng vườn nhà cửa, ra đây xin cất nhà trên đất nầy mà ở, tìm kế sinh nhai. Tôi thấy cũng có đến mấy chục nóc nhà ở tại đây chớ không ít đâu, làm thành một xóm nhỏ. Khi Việt cộng chiếm miền Nam, có một số gia đình thu xếp, dở nhà về lại vườn của mình, có một số gia đình vẫn tiếp tục ở đây, cái nhà chúng tôi sang lại cũng nằm trong đất cùng chủ, tôi không biết được gốc gác của chủ đất, chỉ nghe bà con lối xóm kể rằng trước kia họ thuộc gia đình đại điền chủ, mấy chục nóc gia trong xóm nầy đều nằm trên đất của họ, ở được một hai đời thì chiếm luôn, theo năm tháng, những bậc tiền bối thuộc gia đình đại điền chủ nầy đều ra đi vĩnh viễn, con cháu không có khả năng giữ gìn đất đai của cha ông để lại nên đất đai của họ từ từ lọt vào tay kẻ khác.
Khi tôi ra ở xóm nầy, cạnh nhà tôi là nhà của dì dượng tư, cũng là dân rời bỏ ruộng vườn của mình đến đây ở nhờ trên đất địa chủ, chung quanh nhà có một số cây dừa, thỉnh thoảng tôi thấy con cháu của chủ đất đến hái trái đem về. Mỗi lần đạp xe đạp ra chợ bằng con đường nhỏ trong xóm, tôi có gặp người con trai độc nhất của gia đình địa chủ này trong trạng thái điên điên khùng khùng. Tên anh ta là Văn, vào năm 1980 đó thì anh ta khoảng chừng trên ba chục tuổi, không ở trong nhà mà che cái chòi nhỏ xíu bằng vài cọng lá dừa giống như tôi chơi làm nhà chòi lúc còn nhỏ trong khuôn viên hai ngôi mộ của cha mẹ anh ta để ở, hai ngôi mộ này nằm trên đất của gia đình họ ngay ngoài đường đất nhỏ chạy quanh xóm ra tới đường quan, lần nào đi ngang đây tôi cũng gặp anh ta, khi thì lủi thủi một mình đi tới đi lui trên đường đất nhỏ, lúc thì ngồi trên bức tường thấp chung quanh hai ngôi mộ, hai chân vắt vẻo đong đưa, mắt nhìn mung lung vô không gian u buồn của một xóm thôn quê, áo quần rách rưới, dơ dáy, mặt mũi tèm lem, ai cho gì ăn nấy. Mỗi lần gặp anh Văn thì lòng tôi chùng xuống buồn vô cùng vì nghĩ đến tương lai mờ mịt của anh ta. Anh ta sinh ra trong một gia đình giàu có từ đời ông đến đời cha, đến đời con, ruộng đất bề bề vậy mà giờ đây phải thân tàn ma dại như vậy.
Tuy điên khùng nhưng anh ta chẳng phá ai, cứ lủi thủi một mình như vậy thôi, tuy áo quần rách rưới, dơ bẩn, mặt mũi tèm lem nhưng trông sáng sủa với vóc dáng cao ráo, vừa vặn, da trắng, tóc đen và dày, nếu không muốn nói rằng anh là là người đàn ông đẹp trai, khôi ngô, tuấn tú. Khi ở xóm này hơi lâu một chút, tôi nghe những người lớn tuổi có nhiều sự hiểu biết trong xóm nói rằng anh Văn chỉ giả điên thôi. Trước năm 1975, anh là sĩ quan quân lực VNCH, mang lon Thiếu úy, sau khi Việt cộng chiếm toàn cỏi miền Nam, vì không muốn vào trại tập trung cải tạo của Việt cộng địa phương nên anh giả điên khùng để che mắt chúng để khỏi vào nhà tù cải tạo lớn. Đã lỡ “ném lao phải theo lao” nên anh ta cứ phải giả vờ sống điên khùng như vậy chứ thật ra anh ta giỏi lắm, nói và viết lưu loát hai ngoại ngữ Anh và Pháp, thường lén viết đơn, viết thư hay dịch giấy tờ giúp cho dân chúng trong xóm.
Tôi thường thở dài mỗi khi gặp anh ta bởi vì tôi nghĩ tại sao anh ta phải làm như vậy để cho hư cả một đời! người ta làm sao thì mình làm vậy!
Sau tháng tư đen, hàng hàng lớp lớp sĩ quan ưu tú của quân lực VNCH phải chịu sự trả thù hèn hạ hèn hạ của bè lủ Việt cộng một cách uất ức và tủi nhục trong những trại tù tập trung thì tại sao anh Văn này lại giả điên, trốn tránh, để phải sống một cách khác với người thường như vậy? Năm 1983, chúng tôi bỏ quê, đưa các con lên Sài gòn rồi tìm đường vượt biển, kể từ đó tôi không biết anh Văn ra sao vì tôi chưa một lần trở lại cái xóm ấy.
Khi mẹ con chủ cái nhà lá mà chúng tôi sang lại dọn đi rồi, việc đầu tiên, chúng tôi đốn hết đám mía trước mặt nhà, bới, lượm sạch sẽ rễ mía, dở căn nhà lá xuống, rồi cất nhà khác lớn hơn, tuy cũng vách ván, lợp lá dừa nước nhưng trông khang trang, sạch sẽ hơn nhiều, miếng đất nhỏ trước kia trồng mía thì nay làm sân, chúng tôi thuê một bác thợ mộc già làm giúp, chồng tôi và vài anh em phụ tay vào.
Chỉ mới làm được nửa chừng thì chồng tôi có lệnh gọi tập trung làm thủy lợi. Mỗi lần địa phương cần vét sông, đắp đập, vác lúa, làm đường, chúng đều bắt những người trước kia có làm việc với chính phủ miền Nam đi, mà ở quê, nhất là vùng trước kia chúng nó tàn phá thẳng tay thì công việc nhiều lắm nêm không tháng nào những người này thoát cảnh “ăn cơm nhà vác ngà voi” cả, đã bỏ bê việc nhà rồi lại còn bới xách gạo mắm của mình đi theo ăn trong thời gian làm lao động, nhà nước thì không tốn lấy một đồng xu mà lại được việc chung, vừa có dịp đày đoạ “Ngụy quân, ngụy quyền” nữa, thật là một bọn nhỏ mọn, lợi dụng!
Sáng hôm đó, tôi đang đứng giảng bài cho học sinh, tình cờ nhìn ra ngoài cổng trường thì thấy chồng tôi đi bộ ngang qua, vai quảy túi xách, tôi biết là anh đang đi vào trụ sở Xã An Trường để tập trung đi vét bùn làm thủy lợi, tôi rất bực mình vì nhà cửa đang còn dở dang mà mỗi lần đi thủy lợi như vậy thường kéo dài nhiều ngày, không biết khi nào về, không có chồng tôi phụ thì bác thợ mộc già cũng khó xoay xở vì các anh em chỉ phụ lúc lợp mái nhà mà thôi vì ai cũng bận công việc ruộng nương cả. Mấy lần khác thì tôi không nhúng tay vào, cứ để chồng đi làm “nghĩa vụ”! Nhưng lần này thì tôi không thể im lặng được.
Tôi cố giảng cho xong bài rồi vội đi xuống văn phòng tìm anh hiệu trưởng, nhớ anh đến giữ lớp giùm vì tôi cần đến trụ sỡ xã có chút việc quan trọng. Không chờ anh ta nhận lời hay không, tôi vội lấy xe đạp đạp đi ngay. Khi tôi tới nơi thì thấy một đám đàn ông đủ mọi lứa tuổi, tay ôm túi xách đứng lố nhố trước trụ sở xã, họ là những người mà nhà nước này đeo cho cái bản hiệu “ngụy quân”, trong số này chồng tôi là người “có tội với nhân dân” nặng nhất vì là sĩ quan hải quân, còn lại hầu hết chỉ là lính địa phương quân, cán bộ xây dựng nông thôn, nhân dân tự vệ mà thôi. Quả thật sự trả thù của cái nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam này thật dai dẳng, hèn hạ và vô nhân đạo!
Vì đông người quá nên tôi không nhìn thấy chồng tôi đứng ở góc nào. Dựng vội chiếc xe đạp vào vách nhà trước trụ sở, tôi đi thẳng vào văn phòng, nơi làm việc của mấy “ông vua” địa phương này, xin gặp người có thẩm quyền nhất để nói chuyện. Tôi trình bày cho ông về hoàn cảnh neo đơn của chúng tôi, nhà ở sát bờ sông có hai con nhỏ nên sợ sảy chân một cái thì rớt xuống sông nên luôn luôn cần có người lớn ở nhà, tôi thì bận rộn đi dạy mỗi ngày, chỉ có chồng tôi ở nhà trông con, vậy xin cho chồng tôi được miễn làm thủy lợi lần này. Ông ta và vài người nữa cứ khăng khăng từ chối, cuối cùng tôi nói: “Nãy giờ tôi trình bày hoàn cảnh khó khăn của gia đình chúng tôi để xin các ông thông cảm mà giải quyết theo tình, nhưng các ông không chịu. Vậy bây giờ các ông phải chọn một trong hai đường, thứ nhất như các ông đã biết tôi đang dạy khối mười hai của trường và đang trong thời gian ôn bài cho các em đi thi tốt nghiệp phổ thông mà các em học sinh của tôi là con cháu của các ông, của dân chúng vùng này, nếu các ông thấy công việc của tôi không quan trọng bằng việc đi đào sông vét bùn thì các ông hãy ghi vào tờ giấy này để trường xin với hiệu trưởng cho tôi nghỉ dạy, ở nhà trông con trong thời gian chồng tôi bị tập trung làm thủy lợi, thứ hai, nếu như các ông nhận thấy công việc của tôi quan trọng hơn việc đào sông móc đất của chồng tôi thì cho chồng tôi trở về nhà ngay để cho tôi yên tâm đi dạy”.
Mấy “ông lớn” to nhỏ cùng nhau một hồi rồi nói với tôi:
- Được rồi, cô cứ về trường trước đi, chúng tôi sẽ xét trường hợp của chồng cô.
Tôi lắc đầu quầy quậy:
- Tôi muốn các ông phải dứt khoát ngay chứ không xét đi xét lại chi hết.
Ông cán bộ có quyền nhất trong vấn đề thủy lợi của huyện trả lời:
- Cô cứ yên tâm về trường mà dạy, chúng tôi sẽ cho chồng cô miễn làm thủy lợi vài ngày.
Tôi nói:
- Nếu các ông thấy công việc của tôi quan trọng hơn thì hãy cho chồng tôi về ngay, tôi chỉ về lại trường khi nhìn thấy chồng tôi rời khỏi nơi đây để về nhà mà thôi.
Nhận thấy không thể qua mặt được cái mặt “lì lợm” của tôi, nên họ cho người ra đám đông gọi chồng tôi ra về. Tôi đứng chờ bóng dáng người chồng thân yêu quảy cái túi vải trên vai đi thật xa, tôi mới lấy xe đạp, đạp về trường. Chồng tôi tiếp tục giúp cho bác thợ mộc già làm cửa, dừng vách. Chiều hôm đó, ba chồng tôi từ trong vườn ra nhà mới dựng này để “rày la” tôi:
- Chồng con có đi thủy lợi vắng nhà thì con gọi ba ra ở giử cháu chớ sao con vào tận trụ sở xã để bắt buộc họ cho chồng con về.
Tôi hỏi lại ba chồng:
- Tại sao ba biết chuyện này.
- Thì mấy đứa nó đến nhà “mắng vốn” ba khi trưa này nè.
Tôi trả lời:
- Ở đây không phải là chuyện trông giữ các cháu mà thỉnh thoảng phải cho bọn đó một bài học.
Chỉ sau một thời gian ngắn thì nhà đã làm xong, tuy chỉ là một ngôi nhà gỗ lợp lá nhưng cao ráo và sạch sẽ lắm. Tôi đi đến nhà các phụ huynh học sinh của tôi để xin cây bông thọ loại hoa lớn bằng cái chén trồng cây trước sân, có thằng em từ Sài gòn về chơi, nó đi bứng mấy cây so đũa con mọc đầy trên đường đem về trồng san sát chung quanh sân. Sát bờ sông có một mãnh đất bồi hơi thấp hơn so với cái sân, tôi bảo chồng tôi đào một cái ao nhỏ nuôi cá tra rồi xin cây hoa súng thả xuống, chẳng bao lâu trước mặt nhà đầy màu sắc, bởi vì những cây so đũa chung quanh sân lớn nhanh như thổi, tỏa đàn lá xanh rợp mát cả sân, hoa vạn thọ trổ đầy bong vàng rực, dưới hồ hoa sung cũng nở những bong to màu đỏ đậm rất đẹp. Nhà nằm cuối đường và sát bến nước nên ghe xuồng từ mọi nơi ghé đến tấp nập, dân chúng trong xóm cũng thường xuống bến gánh nước hay tắm giặt nên lúc nào bến cũng có người. Ai đi ngang nhà cũng đều khen:
- Cô giáo về đây ở vui quá, nhà cửa khang trang, có hoa có lá nhìn thật vui mắt, chẳng bù lúc trước nhà thì xiêu vẹo, đám mía rậm rạp đầy lá khô trông um tùm nhìn mà ghê, mỗi lần xuống bến cũng ngán.
Một số bà cụ trong xóm đến đòi mua hoa vạn thọ dể đem cúng chùa vì bông lớn màu vàng tươi rất đẹp, tôi vui vẽ lấy kéo ra cắt ngay cho mỗi người một bó nhỏ mà chẳng nhận tiền.

Chúng tôi đã biến cái bến nước tận cuối đường này từ âm u, rậm rạp, lạnh lùng thành sáng sủa, tươi vui, thân ái vì các bà dì, bà chị xuống gánh nước hay tắm giặt đều ghé vào nhà chơi, uống ly nước trà, nói chuyện vui trong chốc lát mới ra về. Gần nhà có gia đình anh chị Út, họ từ Sài gòn về lại quê hương sau năm 1975, vì là một gia đình đặc biệt nên tôi muốn nhắc ra đây. Anh Út vốn là người tại đây, trước năm 1975 đã đi lính trên Sài gòn, gặp và lập gia đình với chị Út. Sau năm 1975, họ về đây nhờ đất người ta để cất nhà mà ở, làm ăn sinh sống, thời gian đó tuổi của hai vợ chồng họ khoảng trên bốn chục, con cái nheo nhóc rất đông, chị Út sinh năm một nên một bầy mười đứa cứ ngang ngang nhau, chỉ có ba đứa là trai, còn lại toàn là gái. Đứa con trai đầu lòng tên Tiến, khoảng mười lăm tuổi, vậy mà đã dấn thân ra đời kiếm tiền phụ giúp cha mẹ chứ không được đến trường, cả một bầy con của họ không có đứa nào đi học cả. Ngày nào cũng vậy, dù nắng hay mưa, hai cha con anh Út đạp hai chiếc xe ba gát ra đi từ gà gáy hiệp đầu để chở hàng ra chợ cho mấy bà bạn hàng, chiều tối thì cha con họ lại đạp xe ba gát ra chợ chở hàng của mấy bà bạn hàng về.
Anh Út và Tiến làm việc rất chăm chỉ, không khi nào thấy họ nghỉ, vậy mà gia đình cứ túng thiếu mãi, bởi một bầy con quá đông mà chị Út không phải là người vợ, người mẹ đảm đang. Chị ưa đi đánh tứ sắc, giao đứa lớn giữ đứa bé. Đứa con gái lớn kế thằng Tiến chỉ mới mười hai tuồi mà phải đãm đang mọi việc trong nhà, nội trợ bếp núc, còn mẹ nó thì vắng nhà suốt ngày, mỗi lần nghe tiếng chị quát tháo ầm ỉ bên nhà là lúc chị có mặt ở nhà. Bầy con chị dơ dáy, tóc tai bù xù, mặt mày lem luốt, bụng ỏng đít teo, da xanh mét vì thiếu bàn tay săn sóc của người mẹ, trong khi bản thân chị thì chưng diện quần là áo lượt. Chị ta chẳng biết thức thời chút nào cả, mặc dù chị là gái Sài gòn nhưng lúc đó gia đình đã về quê sinh sống dưới chế độ Cộng sản, mà tóc thì uốn quăn tít, móng tay móng chân sơn đỏ choét, quần áo thì màu mè không thích hợp chút nào cả với cái chòi lá mà gia đình chị ở, cũng như đối chọi với người chồng đen điêu vì mưa nắng, ốm o vì ra sức cần lao quá nhiều, áo quần te tua vì đạp xe ba gát suốt ngày và bầy con mười đứa suy dinh dưỡng.
Cứ vài tháng, chị ta đi lên Sài gòn một lần, mỗi lần ở lại trên đó hàng tháng mặc kệ chồng con sống ra sao, chẳng cần quan tâm đến. Bầy con của anh chị Út rất thích qua nhà tôi chơi, ngày nào cũng vậy, con chị cõng con em, từng cặp kéo qua nhà tôi chơi cùng mấy đứa con của tôi. Nhìn chúng nó quá dơ dáy, lem luốc, tóc tai rối nùi đầy chí, tôi sợ chí sẽ lây qua đầu các con tôi nên tôi phải rửa mặt cho chúng rồi kéo từng đứa ra chải chí bằng cái lược dày mà tôi đã mang từ Huế vào, mỗi một nhát lược thì chí mẹ, chí cha, chí con rớt xuống lộp độp như sung rụng, nhiều đến nổi chúng bò khệnh khạng trên mặt bàn giống như ta cầm một nắm mè đen mà rải xuống làm tôi ớn nổi cả da gà, cứ chải xong một đứa thì gom hết chí bỏ trong cái vỏ gáo dừa, nhỏ vào vài giọt dầu lửa rồi đốt, nghe tiếng kêu tách .. tách.. mà ngao ngán! Thật sự khi nhìn mấy cái đầu tóc rối bù đầy chí của chị em nó, trong lòng tôi không muốn cho chúng nó qua nhà tôi chơi chung với các con tôi vì sợ bị lây chí, nhưng nghĩ lại thấy không đành, nhà cha mẹ chúng quá nhỏ lại không có sân, cũng chẳng có gì ăn được nên chúng muốn qua nhà tôi, dù lúc ấy chúng tôi chẳng khá giả gì, nhưng mỗi lần đi chợ chiều mấy bà bán hàng thường mời:
- Cô giáo, còn mớ quít này, cô giáo mua hết tôi lấy rẻ cho
- Cô giáo, còn mấy lon sương sa, sương sáo, cô giáo mua hết tôi lấy nửa giá thôi.
Và tôi thường mua “mão” như vậy, mang về vừa cho các con tôi ăn, vừa cho chị em chúng nó. Chồng tôi về vườn mỗi ngày để trồng dừa, làm cỏ mía hay đi thăm ruộng, lúc ra lại nhà thì lần nào cũng có mang đồ ăn ra, khi thì xoài, khi thì quít, mãng cầu xiêm, lúc thì chuối, dừa hay mía, các con tôi ăn thì chị em chúng cũng có ăn, vì vậy chúng lê la ở nhà tôi từ sáng đến chiều, chỉ có về nhà ăn cơm và ngủ. Mãnh sân nhà tôi tuy nhỏ nhưng cũng đủ cho chị em nó chơi lò cò, búng giây thun, chơi ô lăn hay bắn bi, ném lon. Nhìn thấy anh Út và thằng Tiến đội nắng đội mưa đạp xe ba gát từ khuya đến tối, mặt mũi đen điu, thân hình khô đét, áo quần lam lũ, bầy con lóc nhóc mười đứa từ mười lăm tuổi đến đứa út một tuổi, lúc nào cũng dơ bẩn, tóc tai rối nùi, mặt mày lem luốc, chẳng được bàn tay của người vợ, người mẹ chăm sóc trong lòng tôi dậy nên niềm thương cảm, cũng vì lẻ đó mà tôi thương chia sẽ một chút quà vặt, hay một chút sự quan tâm như chải đầu, rửa mặt cho chúng, đây là người chồng và những người con bất hạnh. Mỗi lần nhìn thấy bóng dáng tôi đạp xe đạp từ đàng xa chị em nó vội chạy ùa ra như ong vỡ tổ, tranh nhau chạy về hướng tôi, vừa chạy vừa la: “Cô ba đi dạy về, cô ba đi dạy về”.
Thế là tôi vội ngừng xe lại, chúng ùa tới chung quanh tôi, đứa đẩy xe, đứa nắm vạt áo dài của tôi, đứa níu tay tôi, chúng tôi đi bộ về nhà. Gần cuối năm 1981, tôi sanh đứa con thứ ba, là gái. Ba tôi từ Huế vào, thứ nhất là thăm tôi, thứ hai là nhờ người quen của ba chồng tôi là chú hai Ân, đang làm việc ở tỉnh Trà Vinh, xin dùm giấy xin di chuyển gia đình từ Huế vào miền Nam để sản xuất, vì cần phải có giấy nầy thì gia đình tôi mới được địa phương ngoài Huế chấp nhận cho di chuyển.
Ba tôi có dẫn vào một em gái khoảng 12 tuổi, bằng tuổi đứa em út của tôi, mồ côi cả cha lẩn mẹ. người chị lớn có gia đình riêng, con đông lại nghèo không thể cưu mang thêm đứa em, người chị kế khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, chưa chồng, đang ở nhà giúp việc lặt vặt cho ba mẹ tôi. Biết được hoàn cảnh mồ côi mồ cút của em, tôi thương em như cháu, em tên Chút, tôi chỉ để cho Chút trông coi em, chơi với các em, còn tất cả mọi việc tôi đều tự tay làm, kể cả giặt áo quần cho Chút. Tánh tình nó ít nói, lầm lầm lì lì nhưng không có tính gian tham, tôi bỏ tiền trong một cái hộp, để trong góc tủ không có khóa nhưng không bao giờ bị mất đồng nào, nó chơi với ba đứa con tôi rất dể thương, có vẻ trung thành nên tôi càng thương nhiều. Năm 1981, vì thằng em trai út của tôi “được” trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, tức là đi lính để qua đánh giặc bên Cam-pu-chia, trong lúc cần người làm “dê tế thần” ngoài mặt trận thì chỉ thấy con của dân chúng bình thường và con của “ngụy quân, ngụy quyền” được “trúng tuyển” nghĩa vụ thôi, còn con cán bộ cấp cao hay của “đảng viên” thì không được “trúng tuyển”, thật là một điều nghịch lý khi bọn chúng luôn luôn quan niệm dùng người bất cứ ở lãnh vực nào cũng phải “hồng hơn chuyên”!
Gia đình tôi là một gia đình quốc gia chân chính nên ba tôi không muốn có con cháu là “bộ đội cụ hồ”, nên ban đầu thì cho thằng em của tôi trốn. Mỗi lần có phường đội đi kiểm soát thì em tôi phải vào trong phòng mẹ tôi để trốn dưới gầm giường. Cái giường mẹ tôi ngủ là một cái giường hộp bằng gỗ rộng có tấm vạt, ba tôi đóng một cái hộp gổ vừa cho em tôi vào nằm phía dưới của một phần tấm vạt trong vách, mỗi khi muốn trốn thì dở phần tấm vạt phía trên rồi chui vào chiếc hộp mà nằm trong quan tài, mẹ tôi đậy phần tấm vạt ấy lại, phủ chiếu lên, rồi nằm giả bộ ngủ say.
Từ từ sự kiểm soát trở thành sự rình rập nên ba tôi phải đưa em tôi về quê ngoại ở Cầu Hai để ẩn mặt, mấy tên phường đội và công an khu phố cứ đến nhà tôi hỏi mãi khiến ba mẹ tôi vừa bực mình vừa lo lắng, ít ngày chúng lại đến, đến vào ban ngày rồi lại đến vào ban đêm làm cả nhà tôi muốn điên cái đầu. Vì vậy, ba tôi mới quyết định đưa gia đình vào Nam, đành đoạn bỏ lại mồ mả ông bà mà bấy lâu nay ba tôi không nở bỏ dể vào Sài gòn lập nghiệp dù có mấy lần có điều kiện rất tốt cũng như chính tôi mấy lần đã xúi giục ba tôi.
Khi có giấy di chuyển trong tay, ba tôi bán đổ bán tháo hết đất đai, nhà cửa với một giá rẻ mạt chỉ trong một tuần lễ rồi thu xếp mướn xe tải đưa gia đình vào Sài gòn ngay. Gia đình tôi đi như kiểu “bỏ của chạy lấy người”, cứ lo sợ bọn phường đội và công an khu phố rình rập đến bắt thằng em tôi đi.
Trên đường di chuyển, ba tôi bị bệnh nặng, vào đến Sài gòn chỉ biết tấp vào nhà ông anh họ của tôi ở Thanh Đa nhờ tạm trú để tìm bác sĩ giỏi của trước năm 1975 chữa trị cho ba tôi. May mắn gặp ông bác sĩ Cù, gặp thầy gặp thuốc, bệnh từ từ thuyên giảm, trong vòng sáu tháng thì lành nhưng tốn rất nhiều tiền vì phải uống toàn thuốc ngoại, số tiền bán nhà cũng vơi đi một mớ. Chồng tôi và đứa em trai dạy ở Vĩnh Long đã đưa mẹ con tôi từ quê lên Sài gòn thăm bằng ghe vì thằng em đã mua lại phần nửa chiếc ghe của Hoàng Sáu, là em vợ của anh hai chồng tôi. Lần đầu tiên tôi “nếm mùi” “gạo chợ nước sông”, vì ghe phải đi mất mất ngày mới tới. Khi trở về lại có vài đứa em tôi đi theo, mấy đứa lớn thì ờ lại một thời gian ngắn rồi lên lại Sài gòn để mua bán, còn đứa em gái út thì không chịu lên, nhất định đòi ở lại dưới quê với tôi, lúc đó nó khoảng mười hai tuổi, nên tôi xin cho nó vào học lớp sáu trường cấp I, II Mỹ Cẩm. Chuyện hùn hạp mua chiếc ghe với Hoàng Sáu là một chuyện buồn phiền đối với chúng tôi, tôi sẽ kể sau.

Khi tôi về dạy tại quê chồng, chỉ mới hai mươi tám tuổi nên trong con người tôi vẫn tràn đầy nhiệt huyết, do đó, tôi tự hứa sẽ làm việc tốt. Hiệu trưởng Huỳnh “đề bạt” cho tôi làm tổ trưởng Tổ xã hội và giáo viên chủ nhiệm (giáo sư hướng dẩn) lớp mười hai A, dạy môn Văn học (quốc văn) hai lớp mười hai, hai lớp mười một. Nhóm giáo viên thuộc tổ xã hội khoảng mười người, ngoài tôi, thì có hai nữ, còn lại toàn là nam, hầu hết đều là người từ xa lại nên phải ở nội trú trong trường.
Năm đầu tiên, tức niên học 1980-1981, lớp tôi làm chủ nhiệm có xãy ra một sự việc mà tôi đã “đối nghịch” với hiệu trưởng Huỳnh. Lớp của tôi có hơn năm mươi em nam nữ học sinh từ mấy xã chung quanh huyện Càng Long như Bình phú, Đại phước, An trường, Mỹ Cẩm, Giồng Ké v..v.. đến học, phần lớn các em học trễ nên học lớp mười một, mười hai mà trông có vẻ già dặn hết rồi; có một số em người Khờ-me mang họ Kim và Thạch, trong đó có một em thuộc gia đình khá, nhà có xe đò chạy Sài gòn- Trà Vinh, tên là Thạch Kô Ma. Không biết em bao nhiêu tuổi, nhưng trông em lớn lắm, đã có râu mép, mỗi lần gọi em lên trả bài, nhìn tướng mạo to lớn và hai con mắt đỏ ngầu của em, tôi cũng thấy ngại.
Nói chung vì các em ở vùng thôn quê chưa “nhuốm bụi trần” nên ngoan hiền dể bảo lắm. Tôi có một yếu điểm, đó là không nhớ hết tên học sinh của tôi, chỉ nhớ một số em cá tính hay có gì đặc biệt mà thôi. Trong đó, có em Thanh Hương, cha em là người Bắc, sau tháng tư đen ông ta đưa vợ con về lại quê hương vì vợ chồng đều là cán bộ nên chính quyền địa phương cấp cho họ một miếng đất trũng sát đường quốc lộ, nằm ở giữa chợ Càng Long và cầu Mây Tức. Họ cất nhà để ở, người chồng làm nghề gì tôi không rõ, nhưng vợ thì dạy lớp một tại trường cấp I, II Mỹ Cẩm, chị ta biết tôi và tôi cũng biết chị ta vì đều là nhà giáo. Em Thanh Hương học kém tất cả các môn, hiệu trưởng Huỳnh dùng “biện pháp” khắt khe đối với học sinh lớp mười hai, vì là năm cuối của bậc Trung học, phải thi tốt nghiệp phổ thông trung học ( tương đương với tú tài toàn phần trước năm 1975 ).
Anh ta bắt các em phải thi thử hai lần trong niên học ngoài hai kỳ đệ nhất và đệ nhị cá nguyệt, đề thi cũng khó như thi thật, em nào không đủ điểm trung bình trong hai kỳ thi thử đó thì anh ta không cho nộp đơn đi thi tốt nghiệp theo đơn vị của trường mà mà phải nộp đơn theo đơn vị tự do, tỷ lệ thí sinh thi tự do có tỷ lệ đậu rất thấp và không được hưởng thêm điểm “vớt” nếu có.
Khoảng hai tháng cuối năm học, hiệu trưởng Huỳnh bắt buộc các em phải ở lại vào cả ban đêm trong những ngày học để ôn bài dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Bởi vậy, các em phải bới theo gạo, củi, tiền thức ăn v..v.. để sinh hoạt cho đủ một tuần. Bỗng nhiên, em Thanh Hương tự nguyện “ghi danh đi bộ đội”, tất cả giáo viên cũng như học sinh trong trường lấy làm ngạc nhiên và hối tiếc cho em vì ai cũng biết vào bộ đội rất khổ, hơn nửa chỉ còn thời gian ngắn là thi tốt nghiệp rồi, và mặc dù em học kém, cũng có thể nhờ may mắn mà thi đậu, còn như em đi bộ đội như vậy thì uổng công mười hai năm ăn học. Tôi là giáo viên chủ nhiệm có bổn phận giải thích, khuyên nhủ em hãy bỏ ý định đi bộ đội đi, cố gắng mà học, kém môn gì thì xin các cô thầy “phụ đạo” (kèm) thêm cho nhưng em không nghe lời, tôi phải tìm chị Tuyển, mẹ của em để nhờ chị về khuyên con gái.
Hiệu trưởng Huỳnh và Trưởng phòng giáo dục huyện Thuận thì mặt mày hớn hở, không những không khuyên em bỏ ý định đi bộ đội như tôi, trái lại họ còn khen ngợi là can đảm, là có lòng với tổ quốc bởi vì nếu em Thanh Hương bỏ học đi bộ đội là họ lập được một thành tích lớn, tha hồ “lấy điểm” với cấp trên. Một hôm, hiệu trưởng Huỳnh gặp tôi, yêu cầu tôi làm lại học bạ cho em Thanh Hương, với tất cả môn học đều đạt điểm khá, tôi thắc mắc tại sao thì anh ta giải thích:
- Em Thanh Hương tự nguyện đi bộ đội, như vậy em đã lập được “thành tích” cho trường, cho phòng giáo dục thì ta phải nâng đở em. Sau ba năm phục vụ trong quân đội, em Hương có thể phục viên, em Hương đủ tiêu chuẩn vào thẳng các trường đại học mà em chọn, không cần phải thi tuyển, với điều kiện điểm trong học bạ phải loại khá toàn môn.
Tôi trả lời:
- Em Thanh Hưong bỏ học, tự nguyện đi bộ đội, đó là quyền lựa chọn của em ấy, còn tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp mười hai A, cần phải giử lập trường và nguyên tắc của tôi, đó là sự công bằng và thành thật, không thể lấy “thành tích cá nhân” mà làm chuyện gian dối, một nhà giáo tốt thì cần sự trung thực, tôi không làm chuyện gian dối được.
Hiệu trưởng Huỳnh bất mãn, gằn giọng:
- Cô phải chịu trách nhiệm về việc cô không chịu làm lại học bạ mới cho em Hương. Nếu cô không làm thì tôi làm.
Thế là anh ta tự làm một học bạ hoàn toàn mới với số điểm Toàn môn học đều là hạng khá cho em Thanh Hương. Lúc nầy, mọi người mới hiểu lý do tại sao em Thanh Hương bỏ học “ngang xưong” để tự nguyện vào bộ đội. Dù lúc chiến tranh thì nữ bộ đội cũng chỉ làm việc ở hậu phương hay hậu cần thôi chớ không chiến đấu ngoài mặt trận, nên cũng khó làm “liệt sĩ”, huống hồ năm đó nước Việt nam cộng sản không có chiến tranh, bộ đội chỉ lo sản xuất thôi, chỉ cực tấm thân phải phát hoang đất đai, trồng củ mì, củ khoai, cây bắp trong ba năm có thể xin “phục viên” trở về, nhảy vào Đại học mà không cần thi tuyển. Đây quả là con đường vào Đại học rất tốt cho các học sinh có sức học kém như em Thanh Hương! Và đây cũng là nguyên nhân về sự yếu kém chuyên môn của một số cán bộ các ban ngành.
Tôi rất bực mình về việc làm gian dối, thiếu công bằng của Hiệu trường Huỳnh nhưng tôi biết rỏ rằng tôi không thể khiếu nại cùng ai vì trong xã hội nầy làm sao có công lý, từ trên xuống dưới đền xử dụng luật “rừng”, phủ bênh phủ, huyện bênh huyện, đều một “giuộc” như nhau, ưa lấy thành tích để báo cáo, cho dù đó là thành tích “láo”! Vì vậy, tôi áp dụng câu “im lặng là vàng”.
Vì gia đình em Thanh Hương sống lâu ngoài miền Bắc nên mới rành cách “nhảy ngang” vào Đại học theo con đường nầy chứ người dân sống trong miền Nam thì không ai biết cả, chúng tôi ở trong ngành giáo cũng không biết luôn. Nhớ lại khi tôi gặp mẹ em Thanh Hương, tôi nói về chuyện em Thanh Hương bỏ học để đi bộ đội thì chị ta tỏ vẻ ngạc nhiên và không bằng lòng, còn hứa với tôi sẽ thuyết phục con gái tiếp tục đi học! Hóa ra chị ta đã đóng kịch với tôi, vì đây là chủ trương của cha mẹ em Hương lẫn em Hương, họ tìm đường vào Đại học cách nầy! Ngày tiển em Hương ra đi, nhà trường và phòng giáo dục huyện làm lễ rất lớn, coi như đưa tiễn một vị “anh thư” làm rạng danh cho địa phương này, thật là tiếu lâm.

Nói chung vì tôi được đào tạo trước năm 1975 và ra trường ngay năm đầu tiên của xã hội chủ nghĩa, nên được "trang bị" một hành trang vào đời đầu dủ kiến thức, tác phong và đạo đức của một người làm giáo dục, do đó không nhiều thì ít, các bạn đồng nghiệp và hiệu trưởng đều có cái nhìn tốt đẹp ở tôi. Giáo viên trường này khoảng mười lăm người, hầu hết còn trẻ hơn hay thua tôi một vài tuổi. Người lớn tuổi nhất là anh Ninh, hiệu phó chuyên môn, kế đến là anh Dờn, người địa phương, hiệu phó ngoại vụ, là người có “đảng tịch” dộc nhất của trường. Cô Ngọc Hồng, vợ anh Ninh, dạy môn Sinh vật ( Vạn vật ). Hiệu trưởng Huỳnh hơn tôi hai tuổi, vợ là cô Oanh, dạy môn Văn khối mười. Trước kia, cô chỉ là giáo viên cấp một, sau đó, hiệu trưởng Huỳnh xin cho cô lên dạy trường cấp ba này, gọi là “giáo viên kê cấp”, không khác gì “bác sĩ hữu nghị”, tức phong cho y tá, y công lên làm bác sĩ vậy.
Tôi thật không hiểu nỗi guồng máy làm việc của cái gọi là xã hội chủ nghĩa “ưu việt” này. Một giáo viên dạy cấp I, cấp II chưa chắc đã tốt nghiệp từ những trường sư phạm, phần đông những giáo viên ở những vùng nông thôn thường là dạy hợp đồng, dạy giờ chứ không dạy chính quy, vậy mà “kê” họ lên dạy cấp III thì hỏi làm sao họ có những kiến thức chuyên môn và tác phong sư phạm mà dạy cho học sinh?
Không phải chỉ trường này mới có trường hợp giáo viên “kê cấp” như vậy mà rất nhiều trường học toàn cõi miền Nam đều có nạn “giáo viên kê cấp” như vậy. Cô Oanh dạy Văn khối mười là một điển hình, cô chỉ cắm cúi đọc từ sách cho học sinh chép chứ không giảng dạy như tôi. Khi cô dạy đến “dòng văn học nước ngoài” có “thần thoại Hy lạp”, bài trích dẩn “con ngựa gổ thành Troy” thì cô chẳng hiểu mô tê gì cả, cô hỏi tôi, tôi phải nói giông dài cho cô, biết bắt đầu từ chuyện “ba quả táo vàng” là đầu mối đưa đến chiến tranh thành Troy.
Cũng vì cái “nạn” cô Oanh cứ cắm cúi nhìn sách mà đọc cho học sinh chép từ cái chấm, cái phẩy đã đưa đến cho tôi một hậu quả không vui. Có em Tư, vừa là học sinh giỏi của lớp 10 do cô Oanh làm chủ nhiệm và dạy văn, niên học 1981-1982 em ấy lên lớp mười một, là lớp tôi dạy môn Văn. Cách tôi dạy hoàn toàn khác với cô Oanh, tôi quan niệm “Văn là người” nên để cho các em tự phát theo khả năng và ý muốn, không em nào giống em nào.
Vì vậy, mỗi khi tôi đến lớp, điểm danh xong, cho các em trả bài xong thì chuẩn bị dạy bài mới, tôi chỉ ghi ra bảng đen cái dàn bài rồi theo thứ tự từng mục trong dàn bài mà giảng cho các em, khi giảng bài, tôi đi tới đi lui từ đầu phòng đến cuối phòng để nhìn các em ghi chép, chỉ khi nào cần ghi ra những điều quan trọng cho các em hiểu rỏ, thì tôi mới leo lên bục giảng để ghi lên bảng đen. Tôi tập cho học sinh của tôi vừa nghe vừa ghi chép theo sự hiểu biết riêng của các em, không gò bó, miễn sao các em hiểu để khi làm bài hay trả bài thì các em làm tốt là được, không bắt buộc các em phải học thuộc lòng. Tôi dạy cho các em nhiều thơ văn và các thể loạI để các em có thể làm một bài văn tốt về bất cứ đề tài, thể loại gì.
Có một lần trong buổi họp, hiệu trưởng Huỳnh bảo tôi:
- Chị cứ làm phần nhập đề và kết luận của tất cả những bài luận văn nằm trong chương trình rồi cho học sinh thuộc lòng, vì khi chấm bài thi, các giáo viên chỉ đọc phần nhập đề và kết luận rồi cho điểm chứ không ai đọc phần thân bài, như vậy học sinh trường mình sẽ được điểm cao.
Tôi phản đối liền:
- Nói như anh thì bài em nào cũng giống em nào, thế các cô thầy chấm thi không thắc mắc chắc. Dạy như cách của anh, tôi không dạy được, và anh cũng lầm to rồi, ai thì tôi không biết, chứ tôi thì dù có chấm thi thì tôi cũng đọc kỹ từ trên xuống dưới, đọc kỹ từng câu, thậm chí còn sửa lỗi chính tả nữa kìa.
Em Tư không quen cách dạy của tôi nên đã qua hai tháng ngồi trong lớp rồi mà em Tư chưa ghi chép được. Đáng lý em phải gặp tôi, trình bày cho tôi biết về sự khó khăn của em để tôi tìm các dạy thêm, thì em đã âm thầm viết một tờ đơn nộp lên ban giám hiệu nhà trường và phòng giáo dục huyện, đề nghị phải đổi giáo viên khác chớ không muốn tôi dạy, em cũng ỷ lại có cha là đảng cộng!
Hiệu trưởng Huỳnh báo cho tôi biết, tôi gặp em và phát hiện trong hai tháng qua, em không tiếp thu gì được, không ghi chép gì cả. Nhưng vì “sĩ diện” là học sinh giỏi của cô Oanh, em đã không them hỏi ai cả! Sau đó, tôi phải nhờ các em học sinh giỏi của tôi “kềm kẹp” em theo các học nầy. Trong khi em Tư “chê và bất mãn” về cách dạy của tôi thì tất cả học sinh của tôi đều “hứng thú” về cách học nầy, bởi vì các em có cơ hội tự phá, không bị gò bó, đóng khung! Một số em sống tại Sài gòn, cha mẹ bị đánh “tư sản, mại bản” , bị nhà nước Cộng sản VN cưỡng chế về sống tại huyện Càng Long, một hình thức bị “đày”! Các em xin vào học trường cấp III nầy, vì các em từng học các trường Trung học tại Sài gòn, nên trình độ học cao hơn những tỉnh huyện vào học lớp tôi dạy, với cách dạy của tôi, các em rất thích thú, các em nói:
- Dạy văn như cô thì học mới thấy thích học.
Một lần, tôi cho học sinh học lớp mười hai viết một đoạn văn với đề tài tự do, có một em đã viết như thế nầy:
“Khi tôi chưa vào đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh, tôi thấy đoàn là một tập thể tốt đẹp, tôi ao ước được đứng trong hàng ngủ của đoàn và tôi đã phấn đấu. Khi tôi đã là thành viên của đoàn rồi thì tôi chán nản, thất vọng. Đoàn như một hạt sưong đậu trên cành lá, đúng xa nhìn thì thấy rất là đẹp, hạt sương long lanh, gợi cảm làm cho ta thấy thích. Nhưng khi ta đến gần, đưa tay hứng lấy hạt sương kia thì lập tức hạt sương biến mất, để lại cho ta một nổi thất vọng tràn trề”.
Khi tôi chấm bài của em nầy, tôi rất thích thú, vì “đồng cảm” với em, tôi cho em điểm khá và chỉ phê bình về cách hành văn lưu loát thôi chứ tôi không phê bình về nội dung. Tuy nhiên, khi trả bài lại cho các em, tôi cầm từng bài, nói vài lời phê bình rồi trao lại cho em đó. Đến bài của em nầy, tôi phải nói: "Văn viết lưu loát, ý tứ súc tích, nhưng em chưa hiểu rõ đường lối sinh hoạt của đoàn nên em mới chán nản, cô mong rằng rồi em sẽ hiểu và sinh hoạt với lòng vui vẻ". Sở dỉ tôi phải nói trái với lòng mình như vậy bởi vì tôi sợ nếu tôi không phê bình như vậy, lở chính em nầy hay bạn của em muốn “thử” tôi thì sao? Ở cái buổi “vàng thau lẩn lộn” nầy thì phải “thủ”.
Giáo viên trong niên học 1980-1981 hầu hết là người không thích chế dộ mới nên chúng tôi không “bon chen” để “lấy điểm”, chúng tôi giao thiệp với nhau khá thân thiết, có thì giờ rảnh thì chúng tôi tụ lại để chê bai, chỉ trích sự “cai trị” dốt nát của bọn lãnh đạo nhà nước, rồi than thở cho thân phận của người dân phải sống trong một đất nước thiếu tự do, tương lai đen tối. Trái lại, hiệu trưởng Huỳnh là người “đại bon chen”.
Thời gian đầu, tôi rất kính mến và thân thiện với anh ta, nhưng từ từ, hiểu được bản chất thật của anh ta thì tôi rất coi thường. Trong số thầy cô ở đây, có thầy Hồng tỏ ra cay cú chế độ nầy ra mặt. Thầy đố học sinh của thầy về bốn chữ “xã hội chủ nghĩa” nghĩa như thế nào? rồi thầy giải thích “xếp hàng cả ngày”, nên bất cứ làm chuyện gì, xin giấy tờ, mua gạo, mua nhu yếu phẩm, mua vé xe vé tàu, người dân đều phải xếp hàng cả ngày chờ đến phiên mình. Không biết sao mà đến tai hiệu trưởng Huỳnh, anh ta tỏ ra cay cú nhưng chỉ phê bình thầy Hồng là “tư tưởng lạc hậu” trong một buổi họp giáo viên mà thôi.
Đến một hôm, cũng trong phiên họp thường niên, hiệu trưởng Huỳnh khoe với mọi người rằng anh ta có viết một bài về vấn đề giáo dục trong nhà trường xã hội chủ nghĩa gởi lên tỉnh dự thi và được giải nhất vì ý kiến rất hay, giải thưởng là một cái quạt máy để bàn. Hầu hết chúng tôi nghe để mà nghe dậy thôi chứ không ai có ý kiến, riêng thầy Hồng, vì biết được cái “bí mật” bên trong nên nói:
- Đề nghị anh đọc lên để anh chị chúng tôi thưởng lãm tài viết văn của anh. Toàn tỉnh đều được đọc mà sao chúng tôi không được đọc, bộ có gì mờ ám hả? Rồi thầy Hồng cho chúng tôi biết hiệu trưởng Huỳnh đã cóp “nguyên con” bài của anh Ninh, hiệu phó, đã viết cho đoàn thanh niên.
Sau đó, hiệu trưởng Huỳnh báo cáo với phòng giáo dục huyện và ty giáo dục tỉnh rằng thầy Hồng có tư tưởng vô cùng phản động, nói xấu chính quyền, đầu độc học sinh.v.v… và đề nghị xử phạt nặng đối với thầy Hồng. Trong khi chờ đợi thầy Hồng bị xử phạt, hiệu trưởng Huỳnh “cho” thầy tạm nghỉ. Trong một buổi họp, hiệu trưởng Huỳnh khuyến khích chúng tôi:
- Sẽ có cán bộ trên ty về điều tra để đưa ra mức độ “xử phạt” thầy Hồng. Nếu các anh chị thương bạn thì đề nghị với ty gởi thầy Hồng vào trung tâm “cải tạo” để thầy Hồng có thời gian và môi trường cải tạo tư tưởng tốt, đó là các anh chị thương bạn, giúp bạn trở thành con người tốt, con người xã hội chủ nghỉa.
Ai cũng biết đây là sự “trả thù” của hiệu trưởng Huỳnh đối với thầy Hồng vì thầy Hồng luôn luôn chống đối, coi thường anh ta ra mặt. Thật ra, hiệu trưởng Huỳnh chưa tốt nghiệp đại học, anh ta chỉ học một, hai năm ở trường Đại học khoa học và đi dạy giờ. Khi Việt cộng chiếm miền Nam, trong cảnh tranh sáng tranh tối của xã hội, anh ta lấy “lý lịch” tốt, có cha từng là “cách mạng” thời kỳ chống Pháp, bị Pháp bắn chết, cộng thêm bản chất “thượng đội hạ đạp”, được đặc cách về làm Hiệu trưởng trường nầy, khi bộ giáo dục có mở ra chương trình cán bộ “học tại chức”, thì anh ta có ghi danh học năm thứ hai hay ba gì đó ở Đại học Cần thơ.
Năm 1983, tôi bỏ dạy đưa các con lên Sài gòn, thỉnh thoảng có về quê thăm gia đình chồng thì được nghe học sinh củ kể lại rằng anh ta thi mãn khóa, lén dở tài liệu ra chép, bị thầy giám khảo, nguyên trước kia là học sinh của anh ta, bắt được, anh ta xin giám khảo lờ đi cho anh ta chép nhưng đã không được nhận lời, bởi vì chính giám khảo cũng đã từng nếm qua “mùi vị’ khắt khe của hiệu trưởng Huỳnh trong thời gian giám khảo còn là học sinh của hiệu trưởng, nay được dịp “trả thù” nên giám khảo đâu có “nương tay”!
Chúng tôi chờ ty về để nói với ty những lời “ngược” lại với hiệu trưởng Huỳnh, nhưng ty đã không về điều tra. Thầy Hồng chỉ bị sa thải khỏi ngành giáo dục vì kỷ luật, thầy trở về Sài gòn làm nghề tự do.
Từ đó, chúng tôi không gặp lại thầy nửa. Có mấy sinh viên tốt nghiệp ngành sư phạm ở trường Đại học Cần thơ về thực tập. Tôi là người “giám khảo” cho thầy Nguyện và cô Mỹ vì họ học môn văn, chính tôi đã phê tốt cho họ.
Niên học 1981-1982, những sinh viên đã về trường thực tập ra trường và được về dạy trường này vì họ là người địa phương. Đó là thầy Nguyện, cô Mỹ dạy văn, thầy Si dạy toán. Tôi vẫn dạy văn hai lớp mười hai và một lớp mười một. Mới về trường dạy chẳng bao lâu mà thầy hiệu trưởng Huỳnh đã đào tạo thầy Si trở thành tay chân đắc lực, chuyên môn rình rập chúng tôi để ghi chép những câu “phản động” mà chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau rồi trình cho hiệu trưởng Huỳnh, khi đến buổi họp, hiệu trưởng Huỳnh mang ra “chỉa” chúng tôi, đưa ra bằng chứng người nào nói câu nào giờ nào, ngày nào làm chúng tôi “chưng hững”, không chối được.
Một lần, không biết ai đã lấy hình Hồ chí Minh trong phòng ngủ của mấy thầy treo ngược lại, đầu chốc xuống đất, chân chổng lên trời, qua “ăn ten” Si, hiệu trưởng Huỳnh biết được, cứ “hạch hỏi” chúng tôi ai là thủ phạm nhưng chẳng ra manh mối vì chúng tôi chỉ biết lắc đầu và lắc đầu. Thầy Cự dạy thể dục thể thao, có cô bạn gái tên Lan đã vượt biển đến nơi bình an, viết thư về “chỉ điểm” đường đi nước bướt cho thầy Cự, đọc thư xong thì thầy đem cất vào tủ riêng, khóa lại cẩn thận. Vậy mà lá thư ấy lại lọt vào tay hiệu trưởng Huỳnh, thầy Cự phải một phen “khốn khổ” vỉ bị buộc tội “tìm đường vượt biên”! May mà thầy không có hành động gì đáng nghi ngờ nên rồi chuyện cũng lắng yên! Vì đồng lương của giáo viên quá ít, nên cuộc sống của các cô thầy khổ lắm, chỉ dựa vào nhu yếu phẩm được mua theo giá phân phối hàng tháng chớ ít khi bỏ tiền mua thêm thịt cá ngoài chợ. Vì vậy, nhà trường tạo đìều kiện cho các giáo viên “kiếm thêm” tiền bắng cách mở ra một căn tin ( tiệm ) bán đồ ăn thức uống ngay trong trường để “phục vụ” cho học sinh. Nếu hiệu trưởng Huỳnh cho người ngoài mướn để lấy tiền hàng tháng thì không nói làm gì, đàng nầy chính giáo viên phải chia nhau mà phục vụ. Căn tiệm được cất lên bằng cây lá, nối liền với phòng học cuối và văn phòng, kê tủ, kê bàn ghế y như một tiệm giải khát thật sự.
Từ khi mở tiệm giải khát nầy thì các giáo viên rất bận rộn, tiếng trống báo hiệu giờ ra chơi là vội vả rời lớp hấp tấp tới tiệm để kịp “phục vụ” cho học sinh. Cứ sáng sớm, nhiệm vụ của anh Ninh phải đạp xe ra chợ lấy bánh ú, bánh ít, chuối chiên từ một bà bỏ mối, đem về và đứng bán, các cô thầy khác đều phải chia phiên trực. Tôi thấy học sinh vào ngồi tại bàn rồi gọi đồ ăn thức uống, lập tức giáo viên nầy thì lo đi lấy bánh, giáo viên kia thì đập nước đá, giáo viên nọ thì cắt chanh, cam, chặt dừa, bỏ đường vào ly, quậy nước, miệng bảo: “có ngay, có ngay”, làm xong thì đem ra đặt lên bàn cho học sinh thưởng thức. Dưới cặp mắt tôi thì những hình ảnh nầy rất chướng! Nó làm cho phẩm giá người giáo viên bị hạ thấp. Các em con nhà khá giả được cha mẹ cho tiền thì thường đến ăn uống, còn các em con nhà nghèo khó không được cha mẹ cho tiền thì chỉ đứng xa mà nhìn, như vậy tự nhiên gây ra sự mâu thuẫn giữa học sinh với nhau! Các em được thầy cô phục vụ thì dương dương, tự đắc. Còn các em không bao giờ bước chân vào tiệm để thầy cô “phục vụ” thì mặc cảm, tủi thân. Quan trọng nhất là về mặt tâm lý, phía giáo viên thì dù nhiều, dù ít cũng nâng đở học sinh làm khác hàng, trong giờ học nếu có gì sơ xuất hay bài làm có tệ một chút các giáo viên chưa chắc đã phạt hay cho điểm thấp, tôi nghĩ nếu tôi là học sinh, dù có tiền thật nhiều, tôi chẳng bao giờ vào tiệm để cho cô thầy của mình “phục vụ”. Hiệu trưởng Huỳnh chia phiên trực cho tôi, tôi đã cương quyết từ chối, không khi nào tôi bước chân vào tiệm. Vì vậy, trong một buổi họp, tôi bị Hiệu trường Huỳnh chỉ trích tôi không hòa đồng với các bạn đồng nghiệp, rồi bảo:
- Trường lấy tiền lời bán ở “căn-tin” để mua gạo hàng tháng cho giáo viên, thay vì giáo viên đóng tiền, chị không chịu trực ở “căn-tin” để phục vụ các em vào đó ăn uống, như vậy chị không xứng đáng hưởng tiền lời nầy.
Tôi trả lời:
- Tôi đâu có bắt trường phải cho tôi hưởng “quyền lợi” nhờ phục vụ cho học sinh. Tôi sẽ đóng tiền phần tôi khi trường đi mua gạo.
Và chỉ có một mình tôi phải đóng tiền khi mua gạo. Năm đầu tiên về đây, chỉ có mình tôi được mua gạo theo giá phân phối rất rẻ, còn các con tôi thì được mua gạo theo giá cao, tuy gọi là giá cao nhưng so với giá ngoài chợ thì vẫn rẻ, chỉ bằng một nửa thôi. Sổ mua gạo của con tôi, tôi giử để tôi tự đến phòng lương thực huyện để mua. Nhưng đến năm sau, phòng lương thực không chịu bán nửa với lý do gia đình có làm ruộng. Một hôm, tôi cầm sổ lương thực của các con đạp xe ra phòng lương thực, vào gặp trưởng phòng, xin anh ta xét lại hoàn cảnh của tôi, chồng đi trại cải tạo về bị chính quyền địa phương quản thúc, nay bắt đi vét sông, mai bắt đi đấp đặp, vác lúa người dân đóng thuế cho nhà nước, chẳng làm ăn gì được, không những không có một đồng trả công, mà bản thân phải cơm đùm gạo bới đem theo mà ăn, đi đâu xa vài cây số thí phải xin giấy phép, không thể rời địa phương lâu ngày. Đi xin việc làm thì bị lý lịch xấu, làm ruộng thì không có đất riêng, vì vậy chỉ có hụ hợ phụ với cha và các em làm mấy công ruộng chung của gia đình. Trong nhà, số người thì đông mà số ruộng thì ít, vì vậy đến mùa, gia đình chỉ cho phần gạo của chồng mà thôi, vì vậy xin phòng lương thực cho các con tôi được mua gạo theo giá cao tiếp như thời gian qua. Tôi cố gắng trình bày, năn nỉ anh ta bằng giọng nhẹ nhàng mong anh ta chấp nhận nhưng anh ta vẫn khăng khăng từ chối. Năn nỉ một hồi lâu vẫn không được, tức quá tôi la lên:
- Anh là Trưởng phòng lương thực tức là cán bộ quan trọng của nhà nước thì nên linh động mà xét hoàn cảnh khó khăn của từng cán bộ, công nhân viên để giải quyết hợp tình hợp lý, giúp cho cuộc sống vật chất của họ khá hơn, bớt lo đi miếng cơm, manh áo thì người ta mới dốc lòng làm tốt công việc của ngườI ta chớ! Anh cứ giải quyết cứng ngắt công việc như vậy thì tôi nghiệp cho người ta, mãi lo cái ăn cái mặc cho con cái như vậy thì làm sao làm việc tốt được? Tôi không cần giữ cuốn sổ nầy nữa, trả lại cho anh đó.
Vừa nói, tôi vừa xé nát cuốn sổ ra từng mãnh nhỏ rồi ném mạnh vào mặt anh ta, những miếng giấy vụn rơi lả tả trên mặt, trên vai anh ta rồi đáp xuống mặt bàn. Mặt anh ta đanh lại vì giận, nhưng vì bất ngờ nên ngồi đờ ra không nói được lời nào. Tôi đạp xe về trường, gặp ngay hiệu trưởng Huỳnh và thầy Dờn đứng nói chuyện với nhau nơi hành lang của văn phòng. Vừa thấy tôi, hiệu trưởng Huỳnh trách ngay:
- Chị nóng quá, để từ từ tôi giải quyết, chớ sao chị lại xé nát sổ mua gạo rồi ném vào mặt đồng chí trưởng phòng lương thực như vậy?
À, thì ra tên trưởng phòng lương thực kia đã gọi điện thoại vào “méc” tội tôi rồi. Tôi nói ngay:
- Rất tiếc tôi chỉ có một cuốn sổ và đã xé nát ném vào mặt hắn ta rồi, chớ nếu tôi còn thêm một cuốn nữa thì tôi cũng xé nát và ném vào mặt anh ngay bởi vì anh chỉ nói bằng lỗ miệng chớ anh đâu có làm. Anh thường nói anh lo cho đời sống của anh chị em giáo viên nhưng thật ra anh chỉ lo giữ cái ghế của anh thôi. Nếu anh có ý giúp tôi thì tại sao khi tôi đặt vấn đề nầy với anh đã lâu mà anh vẫn yên lặng, nên tôi phải mất công đi gặp trưởng phòng lương thực.
Rồi tôi bỏ vào lớp, bỏ mặt cho anh ta đứng đó tức tối. Sống dưới chế độ Cộng sản, chỉ một số cán bộ “ăn trên ngồi trốt” và số người đưọc che chở bởi “ô dù” của cán bộ để làm ăn phi pháp, buôn bán một vốn mười lời, cho vay cắt cổ, buôn bán “xì ke”, quan chức điạ phương ăn hối lộ, tham nhũng, họ có điều kiện “hốt bạc” nên họ sống sang trọng, nhà cao cửa rộng, tiêu xài phung phí một cách vô lý, còn lại số đông dân chúng, công nhân viên nhà nước thì sống thiếu thốn, khổ sở lắm, nhất là những người buôn thúng bán mẹt, những nông dân tay lấm chân bùn, những người làm nghề giáo như chúng tôi thì kể sao cho xiết! Nhờ tôi dạy ngay tại quê chồng, dù sao cũng có vườn có ruộng của gia đình để mà bòn mót, cuộc sống tuy thiếu thốn nhưng không quá tệ. Một lần đó, nhà trường cử người đi mua nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn hàng tháng, vì không có giờ dạy nên tôi đạp xe vào trường để lấy phần của tôi rồi đi chợ mua thức ăn luôn. Gạo hoặc nhu yếu phẩm luôn luôn chia ngay trong văn phòng trường, mỗi lần chia đều có mặt vài ba cô thầy ở đấy, không bao giờ tôi ra tay chia, chỉ đứng nhìn anh nhân viên cùng một, hai cô thầy phụ chia đều từng phần, xong lấy phần tôi rồi đi mà thôi. Ra chợ mua rau cá xong, lấy xe đạp để đạp về nhà, mới đi được một đoạn ngắn thì thầy hiệu trưởng Huỳnh đạp xe ngược chiều đón tôi lại, không biết chuyện gì, vội ngừng xe, anh ta hỏi:
- Khi nãy, chị lấy một bịch đường hay hai bịch đường?
- Tôi chỉ lấy một bịch phần của tôi thôi, anh coi nè!
Vừa nói tôi vừa vạch rộng miệng cái túi xách đi chợ mắc một bên ghi đông xe cho anh ta nhìn.
Anh ta nói tiếp:
- Khi chị vừa rời khỏi phòng thì phát hiện mất một bịch đường.
Tôi bực mình trả lời:
- Tôi không biết.
Thế là anh ta đạp xe đi, tôi cũng đạp xe thong thả về nhà, vừa đạp xe vừa suy nghĩ, rõ ràng trong cái túi xách của tôi chỉ có một bịch đường. Nhưng không biết anh ta có nghĩ rằng mình lấy hai bịch, đem ra chợ bán đi một bịch, nên trong túi xách còn lại một bịch. Khi về đến nhà thì chồng tôi cho biết hiệu trưởng Huỳnh có đến nhà hỏi tôi, chồng tôi nói tôi đi chợ nên anh ta đạp xe ra chợ tìm tôi. Tôi nói sự việc cho chồng tôi nghe và tỏ rõ nổi lo lắng của tôi, nhưng chồng tôi an ủi:
- Em không có lấy thì thôi, cây ngay không sợ chết đứng.
Sáng hôm sau đi dạy thì được biết bịch đường kia đã tìm thấy dưới gầm tủ của văn phòng và do thầy Tri cố ý đá vào đó. Biết rõ như vậy lòng tôi nổi giận lên, định “chửi” cho hiệu trưởng Huỳnh một trận vì tánh hồ đồ nghi oan cho tôi, nhưng sau đó nghĩ lại nếu tôi làm lớn chuyện thì lòi “kẻ gian” ra, thì thầy Tri còn mặt mũi nào để nhìn bạn bè đồng nghiệp nữa, tôi nghiệp cho thầy. Thế là tôi im lặng, chịu uất ức trong lòng một mình. Tuy không hay nói chuyện “tầm khào” vớI thầy Tri như với mấy ông thầy khác nhưng tôi cũng thông cảm và thương thầy như thương một đứa em, quê thầy ở tận ngoài Quảng Nam, vào đây di dạy một thân một mình, sau đó lập gia đình với cô Trang, cũng là giáo viên của trường, gia đình cô Trang ở trên Sài Gòn cũng không dư giả gì nên không giúp thêm gì cho họ được. Vì Hồ Chí Minh bắt chước Mao Trạch Đông bên Tàu, đánh giá “giá trị người trí thức không bằng một cục phân”, nên ấn định mức lương của người giáo viên rất thấp, phải nói rằng thấp nhất trong tất cả các ngành nghề. Cả hai vợ chồng là giáo viên cấp ba, khi còn son sẻ thì gói ghém cũng tạm đủ, nhưng khi cô Trang có thai, hậu quả của sự ăn uống thiếu thốn làm cô bệnh hoài, khi chưa có thai thì ăn uống cực bao nhiêu cũng chịu được, nhưng mang một mầm sống trong dạ con thì khác, nó hành cho người mẹ xanh xao, vì vậy người mẹ cần phải tẩm bổ rất nhiều bằng thuốc men, thức ăn dinh dưỡng. Thế nhưng tiền đâu mà mua những thứ đó! Hằng ngày, bửa ăn tập thể của giáo viên chỉ có tô canh “toàn quốc”, vì vậy cố ấy nuốt cơm không vô, thỉnh thoảng thầy Tri chạy ra nhà tôi xin chút cá, chút thịt mang về cho vợ. Tôi cũng đâu có dư giả gì, nhưng cũng chia sẻ một phần thức ăn vào ngày đó cho thầy. Một người hiền lành, lương thiện, một người trí thức yêu nghề, vậy mà cái chế độ Cộng sản nầy đã khiến thầy làm một việc hèn mạt, thiếu lương tâm như vậy. Thật là tội nghiệp!
“Ngài” tỉnh ủy Cửu Long lúc đó là Sáu Đại, vốn quê quán là huyện Càng Long, không biết trước năm 1975 ông ta thuộc loại nằm vùng phá hoại hay tập kết ra Bắc vào 1954. Trình độ văn hóa lớp ba trường làng, năm 1981 hay năm 1982 gì đó, ông ta được chọn đi qua Liên xô tu nghiệp, mà điều kiện mhà nước đưa ra cho cán bộ đi tu nghiệp nước ngoài là phải có trình độ tốt nghiệp Phổ thông trung học ( tương đương với bằng Tú tài toàn phần trước năm 1975 ). Vì vậy, ông sáu Đại về Càng Long, đóng cửa để “sôi kinh nấu sử” chờ ngày đi thi. Lập tức, phòng giáo dục huyện “lệnh” cho hiệu trưởng Huỳnh chọn “gia sư” “kềm kẹp” trong vòng ba tháng, ông Sáu Đại phải thông làu bài vỡ của chương trình lớp bốn đến lớp mười hai để ông đi thi, nhất định phải đậu. Đây là một cơ hội tốt để cho hiệu trưởng Huỳnh tâng công lấy điểm với cấp trên, chỉ thị ngay cho giáo viên của trường ai dạy môn gì phải soạn bài môn đó rồi chia nhau đến nhà ông ta mà “kềm kẹp” cho ông ta. Tôi là người đầu tiên “được” đề bạt dạy môn văn. Xã hội chủ nghĩa nầy lấy môn văn làm trọng nên trong những kỳ thi, môn văn là một trong ba môn học sinh bắt buộc phải thi ( Văn, Toán, Lý, Hóa ), mà môn văn là môn làm học sinh sợ nhất vì rất khó đạt được điểm cao. Tôi quyết liệt phản đối, nói ngay trong buổi họp:
- Tôi không biết mang “đôi hia bảy dặm” để dạy cho một người lớn tuổi lại mang chức vụ lớn, từ trình độ lớp ba trường làng, mấy chục năm chưa cầm đến cây viết, phải thông làu kiến thức từ lớp bốn đến lớp mười hai chỉ thời gian trong vòng ba tháng. Tôi bất tài không đảm trách nổi.
Hiệu trưởng Huỳnh giải thích làm sao, tôi vẫn lắc đầu, buộc lòng anh ta phải chọn ngườI khác. Vậy là cứ mỗi buổi chiều, giáo viên nào có nhiệm vụ làm “gia sư” cho ông Sáu Đại phải vác cái thân hình ốm yếu vì thiếu chất dinh dưỡng của mình đến nhà ông ta mà dạy. Tôi nghỉ thật là chuyện “phong thần”, nếu không nói là chuyện “ruồi bu”! Chỉ trong vòng ba tháng, làm sao ông ta tiếp thu cả chương trình trong 9 năm trời với cái đầu đặt sệt triết lý không tưởng Max Lénin! Chẳng thà im lặng mà in cho ông ta cái bằng tốt nghiệp phổ thông để ông ta hợp lệ mà đi tu nghiệp nước ngoài còn hơn!
Vào một buổi sáng trong năm 1982, trường vẫn sinh hoạt bình thường, hai giờ đầu tôi dạy lớp 12B, vừa điểm danh học sinh xong, chưa kịp gọi các em trả bài thì có mấy người mặc đồng phục công an đến trường bằng một chiếc xe jeep, chẳng nói chẳng rằng, họ đi vào các lớp nhìn ngó quanh quất, rồi với tay lấy cái bình hoa đang đặt trên bàn giáo viên, đưa mấy ngón tay chuối sứ vạch vạch từng cọng hoa, rồi trả về chỗ củ, tất tả rời lớp học, lên xe phóng đi mất. Tôi đang suy nghĩ không biết có chuyện gì xãy ra thì có hai chiếc jeep chở nhiều công an và một xe hơi màu đen từ ngoài cổng trường chạy chậm vào đậu giữa sân. Trên chục người công an hộ tống một người đứng tuổi, mặt đen và nám từ trên xe hơi bước ra. Họ đi thẳng vào văn phòng, phòng học tôi đang đứng nằm đối diện ngay văn phòng nên tôi thấy rõ hiệu trưởng Huỳnh đang khúm núm đứng chờ ởhành lang để đón vị khách không mời kia. Tất cả giáo viên đều không rời lớp mình đang dạy, chỉ đứng nhìn ra thôi. Chỉ một chốc lát, cả đoàn người đi ngang qua sân, tiến về phía tôi đang đứng do hiệu trưởng Huỳnh hướng dẫn, họ bước vào lớp 12A, nằm sát với lớp tôi đang dạy, đó là lớp tôi làm chủ nhiệm, thầy Ân đang dạy toán cho lớp đó. Vì đây là một căn nhà lá, ngăn làm hai phòng bằng nhiều tấm ván gỗ tạp ghép lại với nhau nên có nhiều khe hở, phía bên nầy có thể nhìn thấy phía bên kia rõ ràng.

Ban đầu, tôi không biết người đàn ông mặt nám kia là ai, nhưng nghe hiệu trưởng Huỳnh giới thiệu “đây là bác ba Lê Duẫn từ ngoài Bắcvào đây thăm trường” với học sinh, thì tôi biết đó là ông Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, là người số một của đất nước! Nhân dịp công du miền Nam, vì biết trong mấy năm liền, tỷ lệ học sinh của trường nầy đậu kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học là 99%, là 100% nên ông ta mớI có ý đi về thăm để chứng tỏ rằng dù ngồi tận trên cao, nhưng ông ta vẫn quan tâm đến đồng bào, và để khích lệ trường vì có thành tích tốt! Trong lớp, hiệu trưởng Huỳnh đứng lớ xớ bên cạnh “bác ba”, phía ngoài cửa vài công an áo vàng đứng gát. Thầy Ân ngừng giảng, đứng bên cạnh hiệu trưởng Huỳnh. Toàn lớp im lặng, học sinh len lén nhìn, hồi lâu bác ba lên tiềng toàn dấu nặng của miền Quảng Trị, không biết các học sinh của tôi có hiểu không?
- Bác ba hỏi và các cháu trả lời thành thật nghe, ví dụ nước ta có giặc xâm lăng thì các cháu có sẵn sàng bỏ học để đi bộ đội chống giặc bảo vệ quê hương đất nước không?
Học sinh đồng thanh trả lờI:
- Thưa bác không bỏ học ạ
Rồi im lặng, một hồi lâu, thấy không khí căng thẳng quá, nên “bác ba” lên tiếng khuyến khích các cháu:
- Bác ba cho phép các cháu muốn nói gì, thắc mắc gì thì cứ nói, bác ba lắng nghe và sẽ trả lời.
Vì được “bác ba” ngỏ lời, em Hiền đứng lên xin nói:
- Thưa bác ba, bác ba đang đứng trong phòng học nầy, cất lên bằng gỗ, tre, lá do chúng cháu đi xin từ vườn của các phụ huynh học sinh mang về, tự tay làm lấy, để làm phòng học cho lớp mười hai A và mười hai B. Mấy phòng học cũ bằng xi-măng khang trang thì nhường cho những lớp đàn em. Xin bác ba cho chúng cháu biết bác ba nghĩ như thế nào?
Em Hiền vừa dứt lời, mặt “bác ba” bừng bừng lửa giận, bác đưa bàn tay lên, dùng ngón trỏ xỉa xỉa vào sát mặt thầy Ân đứng bên cạnh, lớn giọng nói:
- Tư tưởng của các cô thầy trường nầy lệnh lạc hết rồi, nên mới dạy học trò vậy đó.
Rồi quay xuống đưa ngón tay chỉ về phía em Hiền nói bằng giọng bực tức:
- Trò nói như vậy là trò trách móc trung ương không lo cho địa phương nên để cho các trò phải tự tay làm phòng học để học, trò có biết đất nước ta đang trên đưòng xây dựng chủ nghỉa cả hai miền, tốn kém và khó khăn vô cùng, vì vậy dân chúng phải biết “thắt lưng buộc bụng” cùng với nhà nước chia sẽ sự khó khăn, có biết không?
Hiệu trưởng Huỳnh, thầy Ân, em Hiền và tất cả các em khác sợ tái mặt. Đứng bên nầy nhìn qua khe hở, tôi thấy hết mọi sự, lòng bất mãn vô cùng, tôi vội đi ra cửa, định qua phòng bên kia để nói với ông ta rằng “Học sinh của tôi là dân quê lục tỉnh, thật thà chất phát, em nói như vậy là để khoe với “bác ba” thành tích lao động của các em để được “bác ba” khen, chỉ có vậy thôi chứ em đâu có trách móc trung ương như ông ta đã nghĩ. Và chúng tôi là những giáo viên dạy cho các em kiến thức về chuyên môn chớ không phải là giáo viên chính trị dạy tư tưởng cho các em. Tôi cũng muốn nói cho ông ta biết thái độ nổi giận đùng đùng, lấy ngón tay xỉa xỉa vào mặt thầy Ân như vậy là không đúng. Với địa vị “cao vời vợi” của ông, cho dù em Hiền có trách móc thật thì ông ta cũng phải “nén giận” làm lành, nhỏ nhẹ giải thích chứ không nên có cử chỉ như vừa rồi. Anh Ninh biết rất rỏ tánh của tôi, dám nói dám làm, không sợ kẻ quyền thế, chỉ sợ lẽ phải và anh cũng hiểu tôi qua đó để làm gì, nên anh nuí tôi lại không cho tôi đi, anh nói:
- Cô mà qua bên đó thì sẽ sinh chuyện lớn, mà phần thiệt thòi chắc chắn sẽ về cô.
Tôi trả lời:
- Ông ta tuổi đã lớn mà chức vụ cũng lớn nhưng ngang ngược không biết cách cư xử, phải nói cho ông ta biết mớI được.
Nhìn thấy thầy Hùng đang đứng ở hành lang phía bên kia, anh Ninh gọi thầy qua, hai ngườI ôm chặt tôi lại, đẩy tôi vào lớp, nhất định không cho tôi đi. “Bác ba’ mặt mày đằng đằng sát khí, bước nhanh ra khỏi lớp, leo lên xe. Tài xế phóng xe đi, không them đi “tham quan”, thăm viếng thêm lớp nào nữa và cũng không chào từ giả ai cả. Thật là bất phép lịch sự, để lại hiệu trưởng Huỳnh đứng bơ vơ, tiếc nuối! Rồi có lệnh họp khẩn cấp để giải quyết việc quan trọng. Chúng tôi ra bài tập cho học sinh làm để đi họp. Một công an từ ngoài nắm áo em Dũng đẩy vào phòng họp, bắt em quỳ xuống, em Dũng cũng là học sinh lớp tôi chủ nhiệm. Hắn nói:
- Đề nghị nhà trường phải kỷ luật em nầy vì em có thái độ vô cùng hổn xược và phản động.
Rồi hắn kể:
- Anh em chúng tôi ngồi dưới bụi tre phía sau nhà trường để giữ an ninh cho đồng chí bí thư thì em nầy đứng đái bên kia bụi tre, em nói với các bạn cùng đứng đó với em rằng: “chúng mầy thấy tao có oai không? Đi đái mà cũng có công an gát”.
Nói xong, hắn ta chào từ giả. Buổi họp bắt đầu, hiệu trưởng Huỳnh lên tiếng:
- Em Dũng là một đoàn viên mà phát biểu như vậy là không đúng, là mất lập trường, không xứng đáng đứng trong hàng ngủ đoàn. Chị là giáo viên chủ nhiệm của em, chị có ý kiến gì không?
- Đoàn thanh niên và giáo viên chủ nhiệm không có dính dáng gì với nhau cả. Tôi không ở trong đoàn nên không có ý kiến gì cả, nếu đoàn nhận thấy em Dũng không đủ đạo đức, tư cách của đoàn đề ra thì đoàn có quyền khai trừ em. Đến phiên em Hiền, hiệu trưởng Huỳnh nói:
- Phòng giáo dục có điện thoại cho biết “anh ba” có ghé lại phòng và chỉ trích thái độ hổn láo của em Hiền, “anh ba” không bằng lòng, vì vậy nhà trường phải phạt em Hiền thật nặng để làm gương. Tôi có ý kiến như vầy: Trong học bạ cuối năm của em Hiền, chị phải phê đạo đức kém để em không được nộp đơn thi tốt nghiệp theo đon vị trường mà phải thi tự do.
Tôi đáp lại ngay:
- Tôi không thể làm theo lời anh được bởi vì tôi biết rõ em Hiền không dám phiền trách gì cả, chỉ có ông Lê Duẫn đã nghĩ tầm bậy mà thôi. Em Hiền có lỗi chăng đó là em không biết cách ăn nói, cứ nghĩ sao nói vậy làm cho ông Lê Duẫn hiểu lầm. Tôi nói thật với anh người đáng phê bình chính là ông Lê Duẫn, bởi vì vớI cương vị của ông ta, ông ta không nên có cách hành xử “chợ búa” như vậy được. Khi nãy, thấy ông ta nổI nóng tầm bậy, tôi định qua giải thích cho ông ta rỏ nhưng anh Ninh giử tôi lại, không cho tôi đi.
Các giáo viên khác ngồi im, không ai có ý kiến, chỉ có tôi và hiệu trưởng Huỳnh “song tấu”.
- Chị nói như vậy là chị bênh học trò của chị quá, em Hiền phải bị phạt.
- Không, em ấy là một học sinh ngoan, dù học không giỏi lắm nhưng đạo đức của em rất tốt, tôi không thể phê sai với sự thật được.
- Chị phải nghe lời tôi, phê đạo đức em Hiền thuộc loại yếu.
- Tôi nói cho anh biết sở dĩ ông Lê Duẫn đến thăm trường là hình thức thôi, là bất ngờ thôi chớ không phải chủ đích của ông ta. Bởi anh khắc khe với học sinh, bắt học sinh phải thi thử hai lần, phải cơm đùm gạo bới ở lại trưòng ôn tập, em nào dưới điểm trung bình thì anh không cho nộp đơn đi thi theo trường, vì vậy suốt mấy năm liền trường mới đạt tỷ lệ học sinh thi đậu tốt nghiệp 99%, 100%, cao nhất toàn tỉnh cho nên ông ta mới ghé thăm để lấy thành tích thôi. Nếu phạt em Hiền để anh lấy điểm rồI anh được đề bạt lên làm trưởng ty thì tôi cũng “hy sinh” em Hiền cho anh thăng chức, nhưng tôi cam đoan với anh khi ông ta rời trường nầy thì lập tức ông ta không nhớ đến tên anh đâu. Vì vậy, đừng vì “lấy lòng” ông ta mà hại tương lai học sinh của mình, cha mẹ em Hiền tốn biết bao nhiêu công của để nuôi em Hiền ăn học, từ lớp một đến lớp mườI hai, mười hai năm trời cha mẹ em Hiền nuôi hy vọng, mong con mình lấy được bằng tốt nghiệp để học lấy một cái nghề đặng đi làm nuôi gia đình, trả công ơn cha mẹ, nay anh bắt phê đạo đức yếu tức là em phải đi thi tự do, rất khó đậu. Như vậy là anh hại học sinh mình rồi đó.
Vì bực tức nên tôi nói một thôi một hồI và nhất định giữ vững lập trường của mình. Cuối cùng, anh ta đành phải nhượng bộ.
- Chị không chịu phê đạo đức em Hiền thuộc loại yếu, thì chỉ phê là trung bình thôi chớ không thể phê khá, tốt được.
Dù trong lòng muốn bênh vực em Hiền tối đa, nhưng trước sức ép tối đa của cấp trên ( Trưởng phòng và hiệu trưởng ), tôi đành phải chấp nhận “phán quyết” sau cùng của hiệu trưởng Huỳnh. Như vậy, xem như em Hiền bị phạt rồi vì nếu đạo đức trung bình thì em sẽ không được hưởng thêm điểm vớt nếu em thuộc gia đình liệt sĩ, hay năm đó tỷ lệ học sinh đậu thấp quá. Tôi chỉ biết an ủi và khuyến khích em Hiền cố gắng, không hiểu bài nào thì hỏi cô thầy, nhờ cô thầy giảng lại, nhất là môn của tôi, tôi sẽ ở lại thêm giờ kèm cho em. Trong một xã hội chỉ xài luật rừng, cấp trên không biết lý lẽ, chỉ “lấy thịch đè người” thì cấp dưới cũng khó giữ vững lập trường của mình. Khi tôi học năm thứ hai đại học, chỉ mới hai mươi tuổi thì đã đi dạy đệ nhất cấp tại trường trung học Hưng Đạo ở Huế rồi, không phải gia đình tôi cần thêm thu nhập mà vì ba tôi là bạn thân với chú Thuyên, người lập ra trường trung học Hưng Đạo. Chú bảo ba tôi hảy cho tôi vừa đi dạy vừa đi học cho quen, rồi nhân dịp dẩn tôi và em trai tôi vào Sài gòn chơi, ba tôi lại xin cho tôi dạy trường Quốc gia nghĩa tử, chỉ dạy mổi trường vài giờ cho vui thôi, nhưng tôi luôn luôn giữ tốt tư cách và đạo đức của một nhà giáo. Sau nầy, khi ra đi dạy thật thụ, tôi càng gìn giữ những đức tính ấy, đối với học sinh của tôi, tôi luôn luôn thông cảm hoàn cảnh của từng em, đem tình thương ra mà gắn bó với các em, không có sự ngăn cách. Đối với cấp trên, ai đúng thì tôi phục, tôi nghe, ai sai thì tôi cải, tôi không nghe, tôi là người sợ lẽ phải, không sợ uy quyền. Trước năm 1975, vì mỗi tuần tôi chỉ dạy vài giờ và cũng chẳng có gì rắc rối để mà cải, mà cứng đầu. Nhưng sau năm 1975, dù là Trưởng ty, phó ty, hiệu trưởng, hiệu phó gì mà nói sai, làm sai là tôi cải lại, ra lệnh không đúng là tôi không làm. Cũng nhờ cứng đầu và hay cải nên tôi mới được thuyên chuyển về dạy tại quê chồng.
Trước năm 1975, các giáo sư dạy môn gì cũng vậy, tùy theo nội dung bài mà tự soạn ra bài giảng, chứ không bị bắt buộc gò ép trong một cái “khung”, nhờ vậy cho nên các giáo sư dạy môn văn chương mới giảng cho học sinh thao thao ý tứ văn chương lưu loát, phóng khoáng làm cho học sinh ngồi nghe một cách say sưa quên giờ về. Bây giờ, chúng tôi dạy dướI chế độ xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn trái lại, bất cứ môn học nào, bộ giáo dục cũng đã soạn sẵn một dàn bài, đóng khung trong những ý tứ nhất định, gọi là “giáo án”, giáo viên bắt buộc phải theo y như những câu gợi ý trong giáo án ấy để soạn bài giảng, nó đóng khung trong khuôn khô, cứng ngắt và không hợp lý, tại vì họ nặn về tuyên truyền chế độ hơn là truyền bá kiến thức, chương trình bộ soạn ra hầu hết là những văn thơ, văn học của những cây bút “gia” của đảng, lại thêm phải soạn bài theo ý chỉ dẫn của họ, do đó khi giảng bài cho học sinh, tôi không có hứng thú gì cả, cố giảng cho xong nên có vẻ khô khan vô cảm! Có lẽ bắt chước phần văn học nước ngoài của miền Nam VN trước năm 1975 nên chương trình văn học lớp mười một cũng có đưa dòng văn học nước ngoài vào, tuy nhiên họ bắt chước “nửa vời”, phân bố thời gian dạy không hợp lý. Tác phẩm Les Misésables ( Những người khốn khổ ) và văn hào Victor Hugo nổi tiếng khắp thế giới, mấy chục năm, một số nhà đạo diển dựng thành phim, người ta xem tới xem lui vẩn thấy hay, đã công nhận đó là một tác phẩm hay trên thế giới, thế mà trong chương trình chỉ cho trích đoạn “Gaverode ngoài chiến lủy”, thời gian dạy chỉ 2 tiếng, tôi đã dạy cho các em đến 8 tiếng, bởi vì tôi muốn các em phải biết rõ về tác giả, tác phẩm, bối cảnh lịch sử, thời gian, không gian Victor Hugo viết lên tác phẩm để các em thấy được giá trị của tác phẩm, của nhân vật, chớ chỉ vỏn vẹn trong 2 tiếng, chỉ có đoạn trích thôi thì nó cụt đầu cụt đuôi, học sinh chẳng hiểu gì cả. Tôi đã dạy thêm ra 6 tiếng, 6 tiếng nầy là của tôi dạy thêm cho các em chứ nhà nước chẳng phải trả đồng tiền đồng nào cho tôi. Tôi phải nói đến tiểu sử của Victor Hugo, bối cảnh lịch sử nước Pháp thời kỳ ông viết tác phẩm nầy, tóm tắt cốt truyện, phân tích sơ nhân vật, sau đó mới dạy đến đoạn văn trích mà bộ giáo dục đã đưa ra trong chương trình học, tất cả các em học một cách thích thú mặc dù tôi kéo dài thời giờ học, thế nhưng hiệu trưởng Huỳnh đã phê bình tôi trong một buổi họp:
- Người ta dạy cháy giáo án chỉ vài chục phút thôi là đã quá lắm rồi, đàng nầy, chị dạy cháy giáo án đến 6 tiếng ( nếu dạy dài hơn giờ bộ giáo dục đã định thì gọi là cháy án ) như vậy làm sao chị có thể đạt danh hiệu “giáo viên dạy giỏi được” ( cho ăn bánh vẽ ).
Tôi trả lời:
- Tôi đâu cần cần được danh hiệu “giáo viên dạy giỏi”, tôi chỉ cần học sinh của tôi hiểu rõ về tác phẩm, tác giả để biết giá trị của nó. Tôi quan niệm đã học thì phải học đến nơi dến chốn, chứ học kiểu “nửa vời” thì học làm chi?
Trong chương trình văn lớp 12, chú trọng đến tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ chí Minh, có bài thơ:
……oa …. oa ….oa…….
Cha trốn không đi lính nước nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuồi
Đã theo mẹ đến ở nhà pha.
Theo tôi thì đây chỉ là bài thơ ”con cóc”, vậy mà bắt dạy đến hai tiếng, tôi cố gắng lắm mới kéo dài được hơn nửa giờ rồi không biết giảng chi thêm, cũng bị hiệu trưởng Huỳnh chỉ trích:
- Chị biết bài thơ ấy trích từ tác phẩm “Nhật ký trong tù” của bác, bác là nhà thơ lớn, không những của nước ta mà là của thế giới. Một bài thơ có nội dung đầy xúc cảm, một bài thơ có giá trị mà chị chỉ giảng trong nửa tiếng.
- Nói thật với anh, tôi đã cố gắng kéo dài ra, nhưng chỉ được hơn nửa tiếng là tôi hết ý, không biết nói thêm gì nữa cả.
- TạI chị không đào sâu, không nhấn mạnh đến cái hay, cái ý nghỉa thâm thúy, sâu sắc của bài thơ.
- Dạ thưa anh, tối đã cố gắng “đào sâu”, “nhấn mạnh” về cái hay, cái đẹp, cái cao siêu của ý bác rồi nhưng cũng chỉ hơn nửa tiếng là hết. Nói thật với anh, không biết những người trên bộ giáo dục nghỉ làm sao mà họ ra chương trình vô lý quá, như tác phẩm “Những ngườI khốn khổ” của đại văn hào Pháp Victor Hugo, đã chấp nhận là một tác phẩm có giá trị mới đưa vào chương trình học, thế mà chỉ cho học đoạn trích thời gian hai tiếng, làm sao mà đủ? Còn bài thơ trên của bác chỉ có ba câu ngắn, thì bắt dạy hai tiếng. Tôi nghi ngờ trình độ học vấn của mấy người trên bộ giáo dục quá.
Thời gian đầu, chưa hiểu rõ về con người của hiệu trưởng Huỳnh nên tôi kính mến và thân tình với anh ta lắm, rồi từ từ, thấy rõ bản chất “bon chen” của anh ta, tôi hay “chĩa mũi dùi” anh ta trong những buổi họp.
Một lần, anh ta nói:
- Tôi không hiểu tại sao những người nhận quà Mỹ, mặc áo quần từ Mỹ gởi về, cứ hay kênh kêng cái mặt, đáng lý họ phảI cảm thấy nhục mớI đúng chứ!
Tôi nói ngay:
- Rất nhiều người ao ước được nhận thùng quà Mỹ gởi về mà không có đấy. Anh đang mặc cái quần jean của Mỹ đó, sao anh không thấy nhục đi?
- Đây là quần chị Tư của vợ tôi mua cho chớ không phải tôi nhận quà Mỹ.
- Dù mua cũng là đồ của Mỹ, anh chê Mỹ, chưởi Mỹ mà sao lại thích đồ Mỹ?
Một lần khác, anh ta chỉ trích tôi:
- Chị sanh đến đứa con thứ ba là bể kế hoạch rồi, không thể là giáo viên tiên tiến được.
- Anh lo cho anh chứ đừng lo cho tôi, vì anh rất cần “ăn bánh vẽ” chớ tôi đâu cần “ăn bánh vẽ”. Anh mới lấy vợ có mấy năm mà đã “sản xuất” ra 2 đứa con rồi, còn tôi lập gia đình trước năm 1975 lận mà chỉ hơn anh có một đứa con thôi, như vậy là tôi thua anh đấy chứ!
Có một chuyện đã hơn ba mươi năm rồi nay kể lại tôi vẫn thấy ngậm ngùi, thương cho thân phận ngưòi dân sống trong một xã hội mà những người léo lái con thuyền dân tộc là những người ngu dốt, thiếu trình độ kiến thức, thiếu tinh thân dân tộc, chỉ lo cho bản thân. Có một đoàn cải lương đến thuê sân trường cấp III để dựng rạp mà trình diển một tuần, ban ngày, học sinh vẫn đi học, ban đêm đoàn hát, vì là gánh hát đình, hát miếu, nên khách đến xem phải mang ghế theo nếu không muốn đứng vì đoàn diễn ngay tại sân trường. Xưa nay, tôi không thích đến rạp hát để xem cải lương, đại nhạc hội, cinema mà chỉ thích ở nhà xem qua TV thôi. Vì vậy, tôi không có đến trường xem lần nào nhưng nghe các thầy cô ở nội trú kể lại thì đờI sống của các nghệ sĩ quá khổ, quá thiếu thốn. Ban đêm ở trên sân khấu nhấp nháy ánh đèn màu họ lộng lẫy, oai hùng trong vai hoàng tử, công chúa, vua, hoàng hậu, quan văn, quan võ, đã làm cho biết bao nhiều chàng trai, cô gái làng quê say mê, yêu thầm, nhớ trộm họ qua nhân vật, nhưng khi tấm màn nhung khép lại thì sự thật phủ phàng đã trở về với họ, đó là những con người xanh xao, ốm yếu, mặt mày bơ phờ, hốc hác vì thiếu ăn, thiếu ngủ, tay chân hình hài đầy ghẻ lở vì thiếu vệ sinh, ít cơ hội tắm rửa, đến bửa ăn thì ăn uống qua loa vì không đủ tiền mua cá thịt, ngủ trên băng ghế học sinh không mùng không chiếu, không gối, không mền, đàn muổi tha hồ hút máu. Chỉ có cô đào, anh kép chính thì ngủ có treo mùng, rảnh rỗi ra chợ mua thêm thức ăn để ăn riêng vì lương họ khá hơn tất cả. Đào kép phụ, nhân viên kéo màn, dựng phông thì ăn chung do một bà “cấp dưỡng” của đoàn mượn bếp nhà trường mà nấu, mắm muối thiếu trước hụt sau, phải xin bà “cấp dưỡng” nhà trường, mà bếp nhà trường cũng đâu có nhiều nhặn gì, thật là một cảnh “lá rách đùm lá te tua”!

Sau một tuần trình diễn, ông bầu thâu tiền ít, vì nạn người vào coi “cọp” khá nhiều, nên không có tiền để trả cho trường, vì vậy hiệu trưởng Huỳnh giữ lại dàn trống của đoàn làm “con tin”, khi nào ông bầu xoay xở đủ tiền thì đến trả để lấy lại dàn trống đàn, một gánh hát cải lương mà không có dàn đàn, dàn trống thì coi như bó tay rồi! Họ có một chiếc xe hơi cũ để chở dụng cụ và phông, khi rời trường, không có tiền đổ xăng nên đào kép, nhân viên của đoàn thay phiên nhau đẩy.
Tôi không nhìn thấy tận mắt, nhưng nghe nhiều người chứng kiến kể lại, tôi cảm thương cho thân phận những người gắn bó với “nghệ thuật” dưới một chế độ chỉ biết lo củng cố quyền lợi cá nhân, chỉ biết bảo vệ cái “đảng cướp” do Hồ chí Minh tạo ra để mà bảo vệ “cái ghế” mình đang ngồi của những người cầm đầu đất nước. Nếu tôi là hiệu trưởng Huỳnh, tôi sẽ không làm như vậy, tội nghiệp cho người ta, nếu đoàn thu được nhiều tiền nhờ bán vé, trả tiền mướn chổ cho trường thì tốt, bằng không thì thôi, xí xóa cho họ, đó mới là thông cảm, mới là chia sẽ! Đúng là “kiếp tầm thì phải nhả tơ”, những ngườI trong đoàn hát nầy sống kiểu “lang bạt kỳ hồ” rày đây mai đó, “gạo chợ nước sông”, không nơi ổn định, không có đồng lương cố định, chỉ nhờ lòng hảo tâm của đồng bào yêu chuộng cải lương, chịu bỏ tiền ra mua vé, nếu ai cũng ý thức được về lẽ công bằng, muốn vào xem thì phải tốn tiền vì số tiền bán vé sẽ nuôi sống đào kép và những người trong đoàn, tuy nhiên ở thôn quê, những đoàn hát nghèo như vậy sẽ phải chịu cảnh “nghèo mà gặp eo”, bởi vì cái nạn vào xem “cọp” rất nhiều, khán giả thì đông, tiền thu thì ít, ông bà bầu cũng thiếu trước hụt sau, huống hồ chi là nhân viên của đoàn, họ phải sống khổ cực, thế mà họ vẫn theo đoàn, đó là cái nghiệp, đó là sự đam mê.
Em vợ của anh hai chồng tôi là Hoàng sáu, thời chồng tôi còn ở quê đi học trường làng rồi lên trường tỉnh, anh em Hoàng sáu nầy cũng theo đi học chung, ăn chung ở chung, coi nhau như anh em một nhà, khi lớn lên mỗi người đi mỗi hướng, chồng tôi vào quân đội quân chủng hảI quân, người anh Hoàng sáu thì theo nghề giáo, rồi Hoàng sáu cũng nối gót theo anh mình, làm thầy giáo tiểu học. Sau tháng tư đen, nhà nuớc cộng sản VN tập trung tất cả sĩ quan của miền Nam đưa vào tù “cải tạo”, chồng tôi cũng bị ba năm khổ sai trên núi Bà rá thuộc tỉnh Sông Bé, được trở về với gia đình nhưng phải chịu sự quản thúc của chính quyền địa phương, còn anh em Hoàng sáu vẫn làm thầy giáo cấp một. San năm 1975, “vật đổi sao dời, vàng thau lẫn lộn”, tuy ở cùng một xã, nhà ở cách nhau vài ba cây số, nhưng họ cũng không lui tới nhau, vì ai cũng sợ người “tù cải tạo” trở về, chưa được công nhận là người dân của xã hội mớI, nên chưa được cấp “chứng minh nhân dân”.
Bổng nhiên, gần Tết Nguyên Đán năm 1981, Hoàng sáu ghé qua nhà tôi, nói chuyện gì đó với chồng tôi, tôi chẳng quan tâm. Rồi vào một buổi chiều nọ, Hoàng sáu nhắn với chồng tôi ra ngoài đường quốc lộ, ngang qua nhà tôi để chở một số chậu ớt kiểng mà cậu ta mua để bán Tết, đem về để trong sân nhà tôi vì nhà tôi gần chợ. Cậu ta muốn hợp tác làm ăn với chồng tôi, lần nầy cậu ta bỏ ra một số tiền mua ớt kiểng, là tự ý cậu ta chớ không có bàn bạc gì với chúng tôi cả, với vài trăm cây ớt kiểng nầy thì vốn chẳng là bao nhiêu, nên cậu ta nói với chúng tôi là cậu ta bỏ vốn, vợ chồng tôi bỏ công, lời chia hai.
Mặc dù Hoàng sáu không cho chúng tôi biết trước để mà có sự chuẩn bị, nhưng khi được nhắn tin thì chồng tôi vội đi mược chiếc xe kéo tay của người quen khác xóm, rồi cả hai vợ chồng cố gắng chuyển ớt về sân nhà, liều để ba đứa con ở nhà nheo nhóc, đứa lớn trông đứa bé! Vợ kéo, chồng đẩy hì hà hì hục đến tối mới xong. Mỗi buổi sáng trời mới tờ mờ, chồng tôi thức dậy để đưa ớt ra chợ, kiếm chỗ bày ra bán, ngày nào tôi không có giờ dạy thì tôi ra chợ bán, ngày nào tôi có giờ dạy thì bà mẹ hay mất đứa em gái Hoàng sáu bán. Tôi không biết khi người nhà Hoàng sáu ra chợ bán thì sao chứ khi tôi ra chợ bán thì chồng tôi luôn luôn căn dặn, nhắc nhở tôi phải mang theo một số tiền lẻ để khi nào đói bụng hay khát nước thì có mà mua đồ ăn thức uống chớ đừng bao giờ lấy tiền bán ớt mà mua vì đó là tiền chung, mình lấy xài riêng, không công bằng.
Vợ chồng tôi bận rộn vô cùng, trời chưa sáng đã đi mượn xe kéo đưa ớt ra chợ, chiều xế phải đi mượn xe kéo lạI để đưa ớt về sân nhà. Cứ lập đi lập lại như vậy cho đến khi bán hết mấy trăm chậu ớt, mỗi lần tôi ngồI bán thì số chậu ớt vơi đi rất nhiều nhờ tôi chào mời vui vẽ, lại nể tôi là cô giáo trường cấp III, nói giá bao nhiêu người mua cũng gật đầu cả chứ không có “cò kè bớt một thêm hai” gì cả, với lại vợ chồng tôi chịu khó tưới tắm mỗi ngày nên tươi đẹp hơn của những chủ hoa kiểng khác, nhờ vậy chúng tôi bán rất chạy, còn hơn một tuần nửa mới đến Tết mà chúng tôi đã bán hết rồi. Gom được bao nhiêu tiền, tôi đưa hết cho Hoàng sáu, nhờ nó chia tiền lời để mua sắm thêm đồ ăn Tết nhưng chờ hoài vẫn không thấy nó chia, chúng tôi thắc mắc nhưng không dám hỏi nó vì tôi luôn luôn quan niệm hể làm gì mà có liên quan đến tiền tiền bạc bạc thì dể làm cho con người ta trở nên bần tiện.
Có lẻ Hoàng sáu cũng biết được sự thắc mắc của chúng tôi tuy chúng tôi chỉ im lặng nên có một lần nó đến nhà chúng tôi, nó nói số tiền lời bán ớt không chia bởi vì dùng để làm vốn cho chuyến buôn kế tiếp, nhưng nó không cho biết số vốn nó đã bỏ ra mua ớt bao nhiêu và lời được bao nhiêu hết. Khi nghe Hoàng sáu nói vậy, chúng tôi tin ngay, thế nhưng sự thật là nó lừa dối chúng tôi vì nó chẳng buôn bán gì thêm nửa. Kết quả là chúng tôi đã bỏ công sức ra gần cả tháng trời chỉ để làm mọi không công cho nó. Thế mà chúng tôi chưa chịu “mở mắt”, để thấy nó là một đứa xấu xa lợi dụng, để mà tránh xa nó mười cây số, rồi sau nầy chúng tôi phải chịu một phen điêu đứng vì nó. Sống ở đời, nhất là đời “vàng thau lẫn lộn” của xã hội chủ nghỉa, mình hiền lành, đạo đức quá thì luôn chịu sự thiệt thòi.
Sau vụ bán ớt kiểng “không công” cho Hoàng sáu, chúng tôi có bực tức nhưng chỉ một thời gian ngắn rồi thôi, không còn nghĩ gì nữa cả. Một hôm Hoàng sáu bàn với chồng tôi hùn vốn làm ăn lớn, đóng ghe đi buôn chuyến đường xa, nhất là những vùng sông to biển lớn để dò la tìm đường đi nước bước mà vược biển. Hoàng sáu đã “thấu” tim đen của chúng tôi nên chúng tôi nhận lời ngay, mỗi người bỏ vào nửa số vốn. Dù một ten vàng chúng tôi cũng không có chứ nói gì đến hai ba lượng, vì vậy tôi viết thư gửi ra Huế cho ba mẹ tôi để mượn vàng. Trong thư tôi cũng nói cho ba tôi biết rỏ ý định tìm đường vượt biển của chúng tôi, theo cách riêng của tôi nhưng ba tôi sẽ hiểu. Tôi biết rất rõ lúc nầy ba mẹ tôi chảng có vàng đâu nhưng còn năm căn phố phía trước nhà, phường “mượn” một căn để mở nhà trẻ, còn lại bốn căn, ba tôi có thể bàn một hay hai căn thì có vàng vì vậy tôi đặt hết hy vọng nơi ba mẹ tôi.
Quả thật ba tôi bán một căn phố được ba lượng vàng ( giá của năm 1981, ngày nay có thể lên đến vài ba trăm lượng ) rồi vào Trà Vinh thăm chúng tôi và đưa hết ba lượng vàng ấy cho tôi. Có ba lượng vàng trong tay, chồng tôi hùn với Hoàng sáu ra ghe, mỗi người bỏ vốn cho nữa chiếc ghe, họ đi lên Vĩnh Long và đưa về một chiếc ghe mới đóng, khá lớn nhưng mũi bằng.
Tôi không rành về ghe tàu nhưng nhìn thấy chiếc ghe mũi bằng thì tôi thắc mắc ngay, bởI vì loại ghe nầy chỉ chạy được trong sông lạch chứ không đi biển được và sự thắc mắc của tôi được Hoàng sáu giải thích như sau: Nếu mua loại ghe mũi cong và nhọn, là loại ghe đi biển thì chính quyền địa phương sẽ không cho, không cấp giấy phép vì họ sẽ đoán được ý đồ của mình, cứ mua ghe mũi bằng, lúc nào quyết định ra đi thì sẽ sửa lại mũi ghe cao và nhọn.
Chồng tôi là một sĩ quan quân chủng Hải quân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, hiện đang bị chính quyền địa phương quản thúc, vì vậy phải nhờ ông ba Tiều đứng tên ghe vì ông ta là sui gia với ba chồng tôi và cũng là cha của Hoàng sáu, vì tin người nên chúng tôi đã không làm giấy chứng nhận để chứng minh chúng tôi có nửa phần hùn chiếc ghe, dù là giấy viết tay!
Lần đầu “ra quân” cho việc hùn hạp làm ăn giửa hai người là lên Bình Dưong thu mua đồ gốm (chén, tô, dĩa, bát v..v.) chở về cho hợp tác xã huyện. Nhờ có dạy tại Tân Phước Khánh, Bình Dương nên tôi biết ở đó là nơi sản xuất đồ gốm, nên tôi bảo chồng tôi cứ lên đó, đến trường cấp III, Tân Uyên II tìm thẩy Hữu, nhờ thầy đến mấy chổ đồ gốm thu mua cho để sớm có đủ hàng, chớ không thì phải chờ lâu lắm! Tôi viết một thư ngắn cho chồng tôi đem lên đưa thầy Hữu. Khi nhận được thư tôi nhờ thầy giúp đở, thầy sốt sắng nhận lời ngay và dẩn đi mua hàng. Vì cái tình đồng nghiệp giửa tôi và thầy, và cũng vì tình cảm quý mến khoảng thời gian dạy chung cùng trường nên thầy đã không lấy khoảng tiền hoa hồng phía chồng tôi, như vậy bước đầu họ cũng đã có phần lợi rồi. Dù được ưu tiên nhưng vì lấy nhiều mặt hàng do nhiều lò sản xuất khác nhau nên ghe cũng phải neo lại vài ngày để chờ. Lập tức, Hoàng sáu mua vé xe đò về lại Càng Long, nó nói với chồng tôi nó về mua máy F10 như đã hẹn.
Hoàng sáu đến nhà tôi và nói:
- Anh ba bảo em về lấy 5 chỉ vàng chị đang giử để đi mua cái máy F10 vì hôm nay là ngày hẹn lấy máy. Máy nầy công an tịch thu của ghe đi vượt biên nên còn mới, họ bán giá rẻ nên mình phải mua ngay chứ để mất cơ hội nầy thì không biết đến chừng nào mới mua được.
Tôi tin và lấy vàng đưa cho nó, cầm hộp vàng trên tay nó vội vã ra đi vài ngày sau ghe chở hàng về tới. Tiền công chuyên chở, tiền chia lời vợ chồng tôi giao hết cho Hoàng sáu nắm giữ chứ không để ý gì cả. Khi lên Tân Phước Khánh, có 3 người, đó là chồng tôi, Hoàng sá và một nhân viên của ty thương nghiệp huyện, và vì có liên quan đến tôi, là cô giáo củ của con cái họ nên một trong mấy chủ lò gốm đã biếu ba bộ đồ trà, mỗi bộ có một cái bình, sáu cái dỉa và sáu cái tách, đẹp, thanh cảnh, không thua gì của Tàu, đây là loại sản xuất đặc biệt, bán cho khách sang nên trông sang trọng lắm. Dù không nói ra nhưng ai cũng hiểu rằng, mỗi người một bộ, Hoàng sáu và anh kia lấy ngay hai bộ phần của mình, bộ còn lại là phần của chồng tôi nên tôi đem cất trong bồ lúa, với ý định sẽ mang biếu cho cậu Hai của chồng tôi vì tôi tất quý cậu, nhưng qua ngày hôm sau, tôi không còn thấy nữa, tôi hỏi chồng thì chồng tôi bảo rằng Hoàng sáu đã ra lấy, nói đi biếu ai đấy để nhờ vả sau nầy.
Tôi thấy bực mình vì Hoàng sáu rất ích kỷ, sự bực tức khiến tôi lớn tiếng trách chồng tôi sao quá thật thà, hiền lành để nó lấy đi như vậy? Nó muốn biếu ai thì tại sao không lấy phần nó đi biếu, hoặc vì lợi chung thì sao không ra chợ mua đi, mà lại lấy bộ trà của mình! Qua bộ đồ trà, tôi đã mất một phần lớn sự tin tưởng và cảm tình đối với Hoàng sáu, nhưng chuyện hùn hạp đã lỡ dính vào với nó rồi, “phóng lao thì phải theo lao” mà thôi. Nhà tôi nằm sát bờ sông cho nên Hoàng sáu giao cho chúng tôi giữ ghe, vì vậy chúng tôi phải có trách nhiệm trông coi cẩn thận, mỗi tối trước khi đóng cửa đi ngủ chồng tôi phải ra tận nơi cột ghe xem xét coi giây đã cột chắc chắn chưa, và trong đêm dù đang ngủ, khi nghe tiếng chó sủa thì chồng tôi vội thức dậy, đốt đèn dầu lên để nhìn ra nơi cột ghe vì thời gian đó thỉnh thoảng vẫn có nạn mất ghe, mất xuồng.
Chờ đợi mãi vẫn không thấy Hoàng sáu đem máy F10 về để gắn vào ghe, hỏi nó thì nó cứ viện cớ nầy cớ khác cho xong, dần dần chúng tôi mới biết rỏ là nó đã lừa dối chúng tôi, thật ra nó không đi mua máy F10 gì cả mà lấy 5 chỉ vàng của tôi để đi trả nợ bên gia đình của vợ vì nó mượn vàng của họ mua ghe, nay họ đòi gắt quá nên nó gạt tôi mà lấy vàng để trả. Chỉ mới hùn hạp một thời gian quá ngắn ngủi mà Hoàng sáu đã lộ ra bản chất quá lưu manh rồi khiến vợ chồng tôi rất chán nản không muốn nhìn mặt nó nữa.
Một hôm, Hoàng sáu bảo sẽ đi Cà Mau mua đồ biển đem về chợ Càng Long bán, chồng tôi không muốn đi chung mà nhờ đứa em đi thay, chúng tôi cũng phải gom một số tiền đưa em mang theo hùn vốn. Khoảng một tuần thì ghe về lại Càng Long, đầy ắp toàn là chuối xiêm, thật là ngược đời, nói một đàng, làm một nẻo, nếu nó đi Cà Mau mua khô mắm, cá tôm đem về bán thì còn có lý chứ vì xứ Cà Mau là xứ cá tôm, thế nhưng đi Cà Mau mà mua chuối xiêm về bán là thua vì đất Cà Mau đâu phải là đất để lập vườn, do đó rau quả cây trái phải mắc hơn quê chồng tôi thì mua đem về bán lại là một điều nghịch lý. Đối với lòng ngay dạ thẳng như vợ chồng tôi thì nghĩ như vậy, thế nhưng đối với lòng lang dạ sói đầy mưu mô của Hoàng sáu thì chẳng nghịch lý chút nào cả vì đây là một âm mưu. Thay vì đưa ghe đến đậu tại bến nhà tôi để bắt chồng tôi giữ như mọi khi thì Hoàng sáu đem ghe về đậu trên một khúc sông phía sau nhà ông ba Tiều là cha của nó, nói là phía sau nhưng từ nhà ông ba Tiều phải đi qua một đoạn đường trong một cái xóm nhỏ chứ không sát trước hay sau lưng nhà như bến chúng tôi đâu.
Về đã mấy ngày rồi mà Hoàng sáu chẳng nói gì với chúng tôi cả, và sau khi nó về được một ngày thì sáng hôm sau người ta thấy gia đình nó bày chuối xiêm ngoài chợ Càng Long để bán. Những người biết nó chạy về xứ Càn Mau thu mua chuối xiêm thì hết thảy đều thắc mắc, bảo nó làm chuyện ngược đời, có ai mà hiểu cái ẩn ý bên trong!
Khi nghe thằng em kể chuyện lại rỏ ràng thì chúng tôi đã hiểu ra tất cả. Ghe về đến Cà Mau thì Hoàng sáu neo lại một chỗ rồi cứ tà tà chơi chứ không tìm hàng để thu mua gì cả khiến thằng em tôi buồn chán, có hỏi thì nó nói để dọ giá cái đã, cứ chờ v..v..và v..v…. Cho đến một hôm, nó rủ vài ngườI mà nó mới làm quen về ghe bày cuộc nhậu với nhau, vì có uống nhiều rượu nên thằng em chồng tôi tối đó ngũ say mê, chẳng biết trời đất gì cả, đến lúc trời sáng tỉnh dậy mới phát hiện bị mất cái bóp gồm giấy tờ tùy thân và số tiền mang theo để hùn vốn mua hải sản mà Hoàng sáu chưa lấy để thu mua hàng như ý đã bàn trước, em tôi hỏi thì Hoàng sáu trả lời không biết gì cả, sau đó nó bảo bởI vì số tiền em tôi đem theo đã mất, chỉ có tiền của nó thì ít quá, không đủ thu mua hải sản vì vậy mua chuối xiêm chất đầy ghe để mang về.
Suốt một tuần lễ, mẹ và em Hoàng sáu ngồi bán chuối ngoài chợ, nó chẳng nói gì với chúng tôi hết. Một hôm, có em học sinh của tôi báo tin cho biết là cha con Hoàng sáu vào trong ấp sáu, ấp bảy hỏi người để bán chiếc ghe, như vậy, cái âm mưu của nó đã phơi bày rỏ ràng rồi! Hoàng sáu cố ý mời mấy người mới quen ở Cà Mau xuống ghe để ăn nhậu, đến chuyện thằng em tôi bị mất cái bóp, đến chuyện Hoàng sáu chỉ gom chuối chở về, đến chuyện dành giữ ghe rồi cha con nó âm thầm tìm người bán ghe, họ lén lén lút lút như ăn trộm chứ không đường đường, chính chính công khai bàn bạc với chúng tôi là người có phần nửa cái ghe kia, tất cả mọi cái xâu kết lại thành chuỗi thì rõ ràng là âm mưu của cha con Hoàng sáu. Tôi bắt chồng tôi phải đem chiếc ghe về đậu tại bến trước nhà như mọi khi, nghe lời, chnồg tôi vội đến nhà ông ba Tiều xin đem ghe về giữ, thì ông ba Tiều nói:
- Cậu là Sĩ quan ngụy, lở cậu lấy ghe đi vượt biển thì tôi phải chịu trách nhiệm vì tôi đứng tên ghe, tôi không cho cậu lấy ghe.
Mặc cho chồng tôi năn nỉ cách mấy, ông ta cũng không chịu. Nghe mấy lời nầy từ miệng ông ba Tiều, thêm lời mách bảo của em học sinh, chúng tôi biết hai cha con họ muốn giựt luôn cả chiếc ghe. Gặp lúc thằng em ruột của tôi đang dạy Anh Văn ở Vĩnh Long về chơi, chúng tôi lo sợ bị mất ghe nên bảo chồng tôi cùng đi vớI thằng em tôi đến nhà họ lấy ghe một lần nửa nhưng ông ba Tiều vẫn nhất định không cho đem ghe về.
Nhìn thấy những quày chuối xiêm chín chất đầy nhà, những sàng chuối đang phơi đầy trước sân, sau vườn nên tôi tự xách một quày chuối, chẳng thèm nói với ai đem về nhà tôi. Hoàng sáu chở đầy một ghe đầy chuối xiêm về, phần gia đình nó đem ra chợ bán lấy tiền, phần mẹ nó phơi khô để ăn, nó chẳng nói gì với vợ chồng tôi, cũng chẳng nói gì đến thằng em chồng tôi đã đi theo nó. Chúng tôi không được nó cho một quả chuối, vậy mà cuối cùng nó kêu lổ vốn bắt buộc vợ chồng tôi phải chịu một nửa. Chúng tôi không chịu sự quyết định của tên lưu manh bỉ ổi đó làm cả gia đình nhà nó rất hậm hực.
Càng ngày càng nghe nhiều tin từ học sinh của tôi cho biết gia đình nó đang ráo riết đi tìm người để bán chiếc ghe nên tôi lo lắm. Tôi năn nỉ thằng em tôi viết thư xin ba mẹ tôi một số vàng tương đương với nửa chiếc ghe để mua lại phần của Hoàng sáu. Biết chúng tôi lo lắng ngày đêm, ăn ngủ không yên, nhất là lo tôi bị bệnh nên em tôi chấp nhận, khi có số vàng trong tay, em tôi về quê gặp chúng tôi ngay. Hôm sau, chúng tôi đến nhà ông ba Tiều để điều đình mua nửa chiếc ghe, ngoài vợ chồng tôi, em trai tôi, chúng tôi còn mời thêm ba chồng tôi, là sui gia với ông Tiều, chú hai Ân, đang làm việc tại Trà Vinh, là bạn của ba chồng tôi và cũng là bạn với ông ba Tiều và hiệu trưởng Huỳnh. Vì biết được bản chất gian xảo, lật lộng của ông ba Tiều và Hoàng sáu nên chúng tôi muốn mời những người nầy có mặt để làm chứng. Trước mặt đông đủ mọi người, em tôi nói rằng:
- Bây giờ tôi muốn mua lại nửa chiếc ghe là phần hùn của anh Hoàng sáu, bao nhiêu tôi sẽ chung đủ, nhưng sau đó tôi sẽ lấy lại 5 chỉ vàng mà anh Hoàng sáu đã nói gạt chị tôi, bảo là để mua máy nhưng thật ra là anh trả nợ cho gia đình vợ anh.
Chú hai Ân, hiệu trưởng Huỳnh đều nói như vậy là đúng, nhưng ông ba Tiều trả lời với em tôi rằng:
- Bây giờ, cậu muốn mua thì cậu phải chung đủ, không thiếu một cắc, còn số vàng con tôi thiếu nợ vợ chồng ba Tài thì nó sẽ trả sau, còn như cậu trừ ngay thì tôi không bán cho cậu nửa.
Thằng em trai tôi thấy ông ba Tiều giở cái giọng điệu lưu manh, chơi gát, nên nó rất bực bội, nó bảo không thèm mua nửa, định bỏ ra về, vợ chồng tôi lại năn nỉ nó ỉ ôi, bảo nó cứ đưa đủ đi, làm giấy tờ xong để đem ghe về nhà, như vậy mới yên tâm vì cha con thằng Hoàng sáu đang ráo riết đi tìm người để bán chiếc ghe, nếu như vậy thì chúng tôi mất luôn cả mấy lần 5 chỉ. Tôi vừa năn nỉ, vừa khóc, vì vậy em tôi mới chịu “lép vế” để cho cha con ba Tiều chơi gát. Coi như cuộc mua bán xong thì chồng tôi lên tiếng:
- Thưa bác ba, bác không cho thằng em vợ con trừ 5 chỉ vàng trong khi chung tiền. Vậy trước mặt ba con là sui gia của bác, chú hai Ân là bạn của bác, và anh Huỳnh là hiệu trưởng trường vợ con đang dạy, con xin bác lãnh số nợ của thằng Hoàng sáu, phần con thì giao lại cho ba con. Coi như, từ nay bác nợ ba con, bác phải kỳ hạn để trả cho ba con, bởi vì con không muốn dính liếu gì đến thằng Hoàng sáu nửa.
Tôi tiếp lời:
- Thưa bác ba, bây giờ bác không chịu cho em con trừ số nợ mà Hoàng sáu đã nợ của con, vậy xin bác nói chắc chắn khi nào Hoàng sáu sẽ trả nợ cho con.
Ông ba Tiều lập tức trả lời:
- Kỳ hạn trong vòng mười ngày nó sẻ trả lại cho bây.
Tôi hỏi lại:
- Thưa bác ba, nếu trong vòng mười ngày mà Hoàng sáu không trả cho con như lời bác hứa thì làm sao?
Ông ba Tiều dằn mạnh từng tiếng một:
- Nếu nó không trả thì tao trả.
Tôi nói ngay:
- Bác là người lớn, đã hứa trước mặt mọi người như vậy thì xin bác giữ lời.
Ông ta hằn học đáp:
- Tao là cha nó, tao sanh ra nó được thì tao cũng trả nợ cho nó được, nó không trả thì tao trả.
Lúc ấy, tôi rất tin tưởng lời đã hứa của ông ba Tiều, nên trong lòng tôi tất mừng, vì tôi nghĩ một người lớn như ông ta, trước mặt nhiều người chứng kiến, trong đó có sui gia và bạn của ông ta, thì chắc chắn ông ta phải làm theo lời mình đã hứa, vì lời hứa là lời danh dự. Lần nầy, tôi ra về với lòng phơi phới. Nhưng than ôi! những lời mà ông ba Tiều đã hứa trước mặt mọi người ngày hôm ấy chỉ là lời hứa cuội. Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi thời gian đã qua hai tháng mà vẫn chưa thấy Hoàng sáu trả, cũng chẳng thấy ông ba Tiều trả, chúng tôi nóng ruột nhưng cũng ráng chờ thêm. Rồi ba tháng trôi qua, cha con Hoàng sáu vẫn trốn chui trốn nhủi như những con chuột cống trốn trong hang. Tôi bắt đầu hối thúc ba chồng tôi ra nhà ông ba Tiều đòi nợ, nhưng lần nào ông ta cũng lẩn trốn phía trong nhà và biểu vợ con ra nói đi vắng cả. Trong vòng hơn một tháng mà ba chồng tôi đến nhà ông ba Tiều không dưới chục lần mà lần nào cũng y như lần nấy, vợ con ông ta ra nói: “ông ta đi vắng” khiến ba chồng tôi nản lòng không muốn đến nhà ông ta nửa. Phần tôi thì cứ hối thúc ba chồng đi đòi cho bằng được nên ba chồng nói với tôi rằng:
- Để ba đem hết lúa trong bồ đi bán đưa tiền cho con đi trả người ta, còn nợ thằng Hoàng sáu thì từ từ để nó trả sau.
Tôi nhất quyết không cho ba chồng bán lúa. Một hôm, tôi đi chợ sớm vì không có giờ dạy, thấy ông ba Tiều đang đứng chờ khách cùng vài người chạy xe lôi, tôi đến sát ông ta và nói:
- Thưa bác ba, lần gặp mặt cuối cùng cách đây hơn ba tháng, bác đã hứa trong vòng mười ngày thì Hoàng sáu sẽ trả lại cho con 5 chỉ vàng mà con đã chờ hơn ba tháng rồi vẫn chưa thấy nó trả. Con xin bác nhắc nhở Hoàng sáu trả cho con để con trả lại cho người ta vì họ đòi con dữ quá mà con không có để trả. Ba con có đến nhà bác nhiều lần nhưng bác gái cứ nói là bác không có ở nhà nên ba con không gặp bác được.
Tôi vừa dứt lời thì ông ba Tiều sừng sộ với tôi ngay:
- Mầy dám đòi tiền tao giữa chợ hả.
- Thưa bác, tại vì gặp bác khó quá.
- Mầy về nói với ông Tám ( ba chồng tôi ) đừng có đến nhà tao nửa, nếu còn đến gặp tao thì tao sẽ chữi cho mang nhục đó nghe không!
Nghe cách ăn nói ngang ngược, lưu manh của ông ta, một người lớn tuổi và là sui gia với ba tôi, làm tôi giận lên nên tôi nói hơi lớn tiếng:
- Bác là người lớn đáng tuổi ba của con mà bác đã nuốt lời hứa, bác coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa sui gia, hơn danh dự của mình thì bác phải nhục chớ ba con có làm gì sai trái đâu mà nhục!
Tôi vừa dứt câu, ông ta nạt lớn theo kiểu “lấy thịt đè người”:
- A, mầy chưỡi tao đó hả, mầy có giỏi thì cứ đứng đó mà chờ tao đi kêu công an huyện đến còng đầu mầy.
Nói xong, ông ta phóng xe lôi đi, thấy tôi vẫn còn đứng lại chờ, cậu ba Giò, là bạn với ba chồng tôi và cũng là bạn với ông ba Tiều, đang đứng đó chờ khách, bèn nói với tôi:
- Vợ thằng Tài à, bây về đi, đứng đó lát nửa anh ta trở lại thì sinh sự, thôi bay cứ nhịn đi, bay cứ nghe lời cậu đi. Nghe cậu ba Giò khuyên và tôi nghỉ: “Ông ba Tiều là loại người “vừa ăn cướp, vừa la làng”, “mặt dày mày dạng vô liêm sĩ”, đã hứa trước mặt nhiều người mà dám nuốt lời là thứ chẳng ra gì, ông ta đã không trọng mình thì có trọng ai đâu? Thôi, tránh voi chẳng xấu mặt nào, vì vậy tôi đạp xe về.
Vợ chồng tôi có trồng mấy luống dưa hấu trên đất của chị Sáu Cúc, là chị họ của chồng tôi, gần cua Mỹ Huê nên cứ chiều chiều là tôi đạp xe đạp vào đó tưới dưa. Một chiều nọ, cũng như thường lệ, tôi tà tà đạp xe từ nhà đến rầy dưa, khoảng gần một cây số, mới được nửa đường bỗng có một chiếc xe Honda màu đen phóng rất nhanh từ phía chợ về, vì thấy xe chạy với tốc độ quá nhanh nên tôi đạp xe nép vào lề đường và đạp thật chậm, bất thình lình chiếc xe đi sát vào tôi, người ngồi phía sau xe Honda đánh mạnh lên lưng tôi bằng một khúc gỗ vuông cạnh rồi xe phóng bay như tên xẹt về phía cầu Mỹ Huê, tuy nhiên tôi cũng nhận diện đuợc người ngồi phía sau xe Honda kia là Hoàng Sáu.
Bị khúc cây đánh mạnh vào ngay lưng một cách bất ngờ làm tôi hoa cả mắt, chỉ thấy những ngôi sao nho nhỏ xẹt qua xẹt lại, tôi không nắm vững cái ghi đông xe đạp nên chiếc xe đạp chao qua đảo lại, tôi có cảm tưởng như trời sập, đau quà nên nước mắt tôi tuôn ra ướt cả mặt, dưới thì nước tiểu chảy ra ướt cả quần lót. Tôi cố nén đau, cắn răng đạp xe tới nhà mợ bảy Lộc, ở trong ấp ba, là mợ của chồng tôi nhưng thương tôi lắm, nhà mợ ở xa hơn rãy dưa của chị sáu Cúc chừng hơn một cây số.
Khi nghe tôi kể lại cớ sự, mợ bảy và mấy đứa con của mợ tức giận cha con Hoàng sáu vô cùng, tuy tôi không đòi hỏi gì nhưng Bê, con gái lớn của mợ bảy vội vàng lấy xe Honda phóng ra nhà ông ba Tiều ở ngoài cua Mỹ Huê để mắng chưởi thứ đồ đã giựt nợ mà còn vô lương tâm. Còn mợ bảy thì vừa khóc vừa lấy dầu nóng bác sỉ Tín xoa lưng cho tôi. Nghĩa cử của mợ bảy và các con của mợ làm tôi vừa mang ơn vừa cảm xúc bởi vì họ đã quan tâm đến tôi, chia sẽ sự bất bình và đau khổ cùng tôi, không giống như mấy đứa em chồng, chúng nó chẳng thèm để ý gì đến sự buồn lo, chịu đựng của tôi.
Đến hôm nay, khi ngồi viết lại những dòng chử nầy, thời gian trôi qua cũng đã khá lâu, và tôi đã sống cách xa gia đình mợ bảy khá xa, thỉnh thoảng vẫn gởi biếu mợ ít chục đô la để mợ ăn quà cho lòng tôi được phần an ủi. Ông cha ta có câu: “Thi ân bất cầu báo”, nhưng tôi luôn luôn thi hành những lời căn dặn của ba tôi: “Thọ ân mạc khả vong”. Có vài người đã giúp tôi trong lúc tôi gặp khó khăn nhưng vì hoàn cảnh không thể tìm ra địa chỉ để mà báo đáp đã làm lòng tôi áy náy suốt một đời! Sự giúp đở các người anh em chồng là do tình thương của tôi đối với chồng tôi vì: “khi thương thương cả tông ti họ hàng”, chớ đối với họ, tôi chẳng nhận chút ơn nghĩa nào cả, chỉ nhận sự buồn tủi mà thôi!
Một hôm, em trai tôi từ Vĩnh Long và người bạn thời trung học của chồng tôi là anh Huỳnh ngọc Ẩn, cũng là đại úy quân chủng Hải quân đã bị tù “cải tạo” hết mấy năm, nay về ở Vũng Liêm về chơi. Tôi đem việc tôi bị Hoàng sáu đánh lén muốn gãy cái lưng ra kể lại cho họ nghe, cả em tôi và anh Ẩn đòi vào ấp năm, đến nhà Hoàng sáu, lôi nó ra đánh một trận để cho nó bỏ cái thói côn đồ nhưng chồng tôi nhất quyết cản ngăn, anh nói:
- Hai đứa mầy đánh nó xong thì tụi mầy ai về nhà nấy, chỉ có mình tao ở lại đây, mà thân tao là “sĩ quan Ngụy có nợ máu với nhân dân”. Còn gia đình thằng Hoàng sáu thì thân với Việt Cộng, gia đình vợ nó là Việt Cộng gộc đang làm việc tại tỉnh, tại huyện nầy, chúng nó trả thù tao là cái chắc vì cha con Hoàng sáu rất nham hiểm, lúc đó không biết làm sao tao đở được.
Lúc ấy, khi nghe chồng tôi nói như vậy, tôi rất bực mình, cảm tưởng anh là một người hèn nhát, sợ thằng Hoàng sáu nên tôi sẵn giọng với anh:
- Tại sao anh không muốn trả thù cho em, em đã bị nó lường gạt lấy vàng rồi nay rình rập đánh em muốn gãy cái lưng, anh để nó ung dung tự tại như vậy được sao, anh hèn nhát quá!
Chồng tôi chậm rãi trả lờI:
- Từ rày, mỗi lần đi dạy hay đi đâu thì nhớ nhìn trước nhìn sau cẩn thận. Thấy em bị nó đánh như vậy, lòng anh đau lắm, nhưng em phải biết vợ chồng mình đang ở trong thế kẹt, anh là một thằng sĩ quan Ngụy, bị đi “cải tạo” trở về, mình như cá nằm trong rọ, nó muốn bắt khi nào thì nó bắt, mình đánh nó, dù mình có thắng đi chăng nữa rồi cuối cùng mình cũng sẽ bị cha con nhà nó trả thù. Tụi Việt Cộng chuyên môn dùng luật rừng làm sao mình chống chọi ông còn hung hăn đòi trả thù Hoàng sáu nửa. Vì chiếc ghe đã hoàn toàn thuộc về chúng tôi nên chồng tôi rủ anh Ẩn và em tôi hùn vốn đi buôn, chúng tôi thì bán lúa, anh Ẩn thì bắt vợ bán heo, em tôi thì đi Sài gòn xin tiền ba mẹ tôi. Thế là ba người đi Cà mau mua hải sản đem về chợ Càng Long bỏ mối cho bạn hàng. Ngoài việc đi mua bán, họ còn có ý định dò đường để đi vượt biển nửa. Chồng tôi đi vắng vài ngày thì một ngày nọ, khoảng xế chiều, tôi đang lo nấu cơm cho mấy đứa em ở Sài gòn về chơi và con, thì Hoàng sáu đạp xe đạp dến, nó đứng bên hông nhà và gào thật lớn:
- Tài ơi, cha mầy đã bị tao chém đứt cổ nằm ở cua Mỹ Huê, mầy có giỏi thì vào đem xác cha mày về chôn.
Nó gào ba, bốn lần như vậy rồi đạp xe đi, lúc đó, trong nhà tôi, ngoài mấy đứa em, mấy đứa con còn có vài người hàng xóm ngồi chơi nửa, nên khi nghe Hoàng sáu gào như vậy, tất cả mọi người đều tái mặt, nhất là tôi, tay chân tôi run lên bởi sáng sớm hôm nay, ba chồng tôi từ trong vườn ra nhà tôi và nói với tôi:
- Ba ra huyện thăm vài anh em bạn, trưa nay con nấu thêm cơm cho ba về ăn luôn thể.
Cả nhà chờ cơm trưa, chờ đến một, hai giờ vẫn không thấy ba về ăn cơm trưa nên tôi dọn cơm cho các em và các con ăn trước, để dành phần cho ba, thế nhưng ba vẫn không trở về, cho đến xế chiều, vì vậy lòng tôi hoang mang lo lắng. Tôi lấy xe đạp, định đạp theo sau Hoàng sáu nhưng mấy người quem đang ngồi chơi trong nhà và mấy người hàng xóm tụ tới, cùng ngăn tôi lại. Anh Nhân, bạn trai của con gái bác Năm nhà đối diện lên tiếng:
- Cô giáo đừng đi, nguy hiểm lắm, để tôi đạp xe theo xem tình hình ra sao rồi về nói cho cô giáo biết.
Rồi anh Nhân đạp xe nhanh theo sau Hoàng sáu, từ nhà tôi đến nhà ông ba Tiều chỉ hơn một cây số nên không lâu, anh Nhân trở về và cho biết:
- Tôi đạp xe sát phía sau nó, vì không biết tôi nên nó không để ý, khi đến nhà nó, tôi đứng ngoài đường nhìn vào, thấy trong sân nhà có nhiều người chờ sẵn ở đó, Hoàng sáu vào đến sân, ném chiếc xe đạp dựa bụi cây rồi nói lớn:
- Kỳ nầy dụ thằng Tài vào đánh chết nó cho vợ chồng nó biết tay Nghe nó nói những lờI độc ác như vậy mà người nhà của nó không có ai lên tiếng cản ngăn gì cả, sau đó tôi đạp xe lui tới cua Mỹ Huê hai vòng mà không thấy ông bác ở đấy, có lẻ chỉ muốn dụ chú Tài đến để đánh chú thôi.
Mọi ngườI đều thở dài nhẹ nhỏm và nói:
- May mắn là chú Tài không có ở nhà.
Mặc dù anh Nhân thuật lại như thế nhưng tôi vẫn chưa yên lòng vì ba chồng tôi đã hẹn mà không đến, nên tôi mược chiếc xuồng của nhà dì bảy, vừa có bà con xa bên ngoại của chồng, vừa nhà ở sát bên cạnh, cùng thằng em trai út của tôi bơi vào ấp ba, là nhà cô em thứ tư của chồng để hỏi rõ cho yên bụng.
Tôi ngồi phía sau bơi lái, thằng em út ngồi phía trước bơi mũi, vì gặp lúc nước ngược nên bơi thật vất vả, với lại tôi không dám bơi phía tay phải vì phải bơi ngang qua bến sau lưng nhà ông Tiều, nơi ông ta đã cột chiếc ghe khi em tôi chưa mua lại, tôi bơi phía bên kia thì xa và khó hơn vì dòng sông đến ngang cua Mỹ Huê có hình vòng cung, lòng sông sâu hơn và nước chảy gắt hơn vì là bên lở, tôi chỉ là tay mơ về bơi xuồng còn em tôi thì là lần đầu tiên cầm cái dầm bơi mũi nên chúng tôi bơi cà trật cà duộc, khó khăn lắm mới qua được đoạn đường sông dài hơn khoảng hai cây số.
Tìm bến tấp vào bờ, để em tôi ngồi coi xuồng còn tôi lên bờ lần mò tìm đường đi ngoằn ngoèo trong xóm để đến nhà cô em gái thứ tư. Khi tôi vào nhà thì thấy có cả cô em gái thứ bảy ở đó nửa. Tôi thuật lại sự việc đã xãy ra rồi hỏi thăm ba có ghé đây không? Vừa nghe xong câu chuyện, hai cô em chồng không an ủi tôi thì chớ, mà còn đanh mặt, quắt mắt nói với tôi bằng một giọng rất lạnh lùng:
- Chuyện hùn hạp làm ăn của chị có vấn đề gì thì chị ráng mà chịu, còn ba tôi mà bị gì thì chị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Nghe hai cô em chồng dùng cái giọng đánh đá ấy để nói với tôi làm lòng tôi buồn vô cùng. Chúng nó đều biết lường gạt vợ chồng tôi, đánh tôi muốn gãy cái lưng, ông ba Tiều chưỡi tôi giữa chợ vậy mà chưa bao giờ chúng nó nói với tôi vài lời thông cảm, an ủi, nay chúng nó dở giọng chanh chua ra. Tôi lủi thủi tìm đường trở về bến, cùng em tôi bơi xuồng về nhà với một cỏi lòng tan nát.
Ngày hôm sau, cũng vào buổi xế chiều, tôi đang ngồi trong nhà chấm bài, bên cạnh có vài ba người quen, họ ở xóm phía trên lộ, xuống bến giặt áo quần, giặt xong thì tạt vào nhà tôi ngồi chơi một lát như mọi khi, dì bảy, chị sáu và chị chín, con gái của dì cũng qua chơi, nói chuyện trên trời dưới đất đang vui vẻ thì hai vợ chồng anh hai chồng chạy xe Honda đến. Ông anh chồng dựng xe trước sân rồi vào nhà, còn bà chị dâu chỉ đứng chân trong chân ngoài bắt đâu quơ tay quơ chân chưỡi tôi:
- Mày dám đòi tiền ba tao ngoài chợ để làm nhục, tao sẽ sai các em tao thấy mầy đâu thì lấy chổi chà quét nhà cầu đánh trên đầu mầy …..
Bà ta chưỡi nhiều lắm nhưng tôi không nhớ hết, còn ông anh chồng thì nói:
- Thím coi chừng, ba tôi đã đưa đơn lên ty giáo dục Cữu Long để đề nghị đuổi thím ra khỏi nghành giáo dục rồi đó.
Tôi không hiểu là anh đang nhắc nhở để tôi đề phòng hay là dọa tôi thêm. Quả thật lòng dạ con người khó đoán! Bà chị dâu chồng đứng chưỡi một hồi lâu, tôi không nói gì cả, chỉ ngồi cùng em trai, em gái trên cái đi văng đặt trong góc nhà, hai tay tôi đưa lên bịt hai lổ tai lại như thầm nói với bà ta rằng tôi không thèm nghe. Hồi lâu thấy tôi không đối đáp lại, khiến bà ta tức thêm, xông về phía tôi ngồi như muốn đánh tôi, lập tức mấy người đang có mặt ở đó đồng thanh nói với tôi:
- Cô giáo cứ nhào vào bà ta để bà ta đánh cô giáo, để tụi tôi lấy cớ vào can mà đánh cho bà ta một trận chứ chị chi mà hung dữ quá, thấy cô giáo ngồi yên để cho bà ta chưỡi, tụi tui lộn cả ruột.
Dì Bảy còn xúi dục thêm:
- Ba, bay nhảy vào chụp tóc mụ ta rị xuống để chị Sáu, chị Chín bay đánh cho mụ ta một trận.
Mặc ai nói gì thì nói, tôi vẫn cứ ngồI yên, hồi lâu mới nói với bà chị dâu:
- Tôi không muốn sinh chuyện, cho nên nãy giờ tôi ngồi yên, để mặc cho chị múa tay múa chân mà chưỡi tôi, bây giờ tôi chỉ nói với chị rằng ba của chị là người lớn, đã hứa rồi mà nuốt lời hứa không biết coi trọng lời mình đã hứa, chỉ biết coi trọng tiền bạc, ba là sui gia mà coi chẳng ra gì, đến nhà tìm ba chị thì ba chị cứ trốn rồi bảo mẹ chị ra nói là đi vắng, một người không biết trọng tình nghỉa như ba chị thì tôi rất khinh thường, chị hảy về đi.
Nghe tôi nói như vậy, ông anh chồng vội kéo bà vợ ra về mặc dầu bà ta không chịu đi, ngồi phía sau xe Honda, bà ta cố quay đầu lại tiếp tục chưởi tôi, xe đã chạy xa mà chúng tôi vẫn còn nghe tiếng bà chưỡi.
Đã trãi qua hơn ba mươi năm rồi nhưng tôi nhớ như in hình ảnh hôm đó và lòng rất buồn, hai mươi mấy năm qua tuy tôi có gởi tiền về giúp nhưng trong lòng tôi rất coi thường vợ chồng họ dù họ là anh chị chồng tôi. Họ là người không biết lẻ phải, không phân biệt trắng đen. Hoàng sáu và chồng tôi đều là em ruột của họ, một người thì em chồng, một người thì em vợ, họ sống cùng nhau từ nhỏ đến lớn, bản chất đứa em nào cũng xấu, đúa em nào tốt tức họ đã biết rõ, dù cho họ chưa hề biết rõ rang sự việc đã xãy ra giữa hai đứa em thì ít nhiều họ cũng đoán biết đứa em nào đã gây ra lỗi. Nếu tôi ở vào địa vị của họ thì tôi sẽ có một buổi họp gia đình có mặt cả hai bên để tìm hiểu sự việc, đúa nào sai thì phải la rầy, ngay cả cha mẹ mình mà sai thì cũng phải dùng lời khuyên giải để cha mẹ mình khỏi sai, chứ đâu có hồ đồ như vậy để đánh mất tình cảm và lòng coi trọng họ của tôi, một đứa em dâu của họ, mất vĩnh viễn, sẽ không bao giờ có lại được cho tới khi tôi xuôi tay nhắm mắt!
Hôm sau, tôi đi dạy, hiệu trưởng Huỳnh nói với tôi:
- Chiều qua, người con trai ở Long Xuyên của ông ba Tiều có ghé trường, anh ta đề nghị tôi kỷ luật chị và không cho chị dạy nửa, vì chị không có tư cách làm cô giáo, tôi trả lời với anh ta chuyện hùn hạp làm ăn là chuyện riêng tư của chị, trường không có quyền xen vào. Chị có đầy đủ khả năng chuyên môn và đạo đức tốt thì không thẻ đuổi ra khỏi ngành giáo được.
- Cám ơn anh đã thông cảm cho tôi.
Tôi lắc đầu ngao ngán cho cái thế thái nhân tình, tôi biết anh ta tên Bửu, con thứ tư của ông ba Tiều đang lập nghiệp tại Long Xuyên, là bạn với rất thân với chồng tôi, có thể coi như anh em vì ngang tuổi với nhau, họ gắn bó với nhau từ quê nhà, đến lúc về thị xã Trà Vinh để học tiếp cũng ở cùng nhau. Chồng tôi khen anh ta là một người hiền lành, trọng tình bè bạn, thế mà bây giờ cũng vì bênh vực cha, em mù quáng, không biết tìm hiểu câu chuyện để đánh mất lưong tâm, vậy thì cả nhà ông ba Tiều đều cùng một giuộc!
Mấy ngày sau ghe chồng tôi về đến, họ chở đầy một ghe lươn. Theo sự tính toán về giá mua và bán, sau khi trừ mọi chi phí xong thì có lời nhiều vì giá bán, dù là bán sĩ cũng cao gấp mấy lần giá mua, trong lòng chúng tôi tràn trề hy vọng.
Họ trưng dụng hết lu, khạp, thau to, thau nhỏ có trong nhà để mà rộng lươn, ngay chiều hôm đó tôi đến nhà mấy dì ở cùng xóm có sạp bán tôm cá ngoài chợ Càng Long, nói với mấy dì lại nhà tôi mà cân lươn. Mấy dì đi ngay.
Tôi vốn rất sợ những con mình dài, không chân như con rắn, con lương, con trăn, chỉ nhìn vào hình ảnh hay bức họa thôi là tôi đã sợ rồi, huống hồ gì là còn sống. Bây giờ, trước mặt tôi không phải chỉ là một con mà cả ngàn con trườn lui trườn tới, ngo ngoe cái đầu, cái đuôi nằm chồng chất nhau trong lu khạp! Quả thật tôi không dám nhìn, không dám đứng gần.
Tôi ngồi từ đàng xa cầm cuốn sổ, mấy dì tự cân rồi nói con số cho tôi ghi để tính tiền. Sau khi mấy dì mang phần lươn đã cân xong ra về, thì còn dư một thau lớn, sang ngày hôm sau, tôi bắt mấy đứa em đem ra chợ bán lẻ được đồng nào thì hay đồng nấy chớ không để ăn. Cứ tưởng lời to, ai dè lỗ nặng vì kết cuộc số lươn bị hao hụt đến cả trăm kí lô, một phần khi mua, mấy bà bán lươn ở Cà Mau đã cân “non” cho mấy ông “đực rựa” mới tập tễnh đi buôn, một phần khi bán, mấy dì tự cân nên họ đã cân “già”. Anh Ẩn bay luôn con heo, vợ chồng tôi bay luôn số lúa và em tôi đi buôn lần đầu và cũng là lần cuối nhớ đời của họ.
Tôi kể cho chồng nghe những chuyện xãy ra trong thời gian anh di vắng, chồng tôi bảo:
- Mình phải tìm cách rời quê và tìm đường vượt biển, nếu Chúa thương cho mình đến được bến bờ tự do, mình cố gắng làm việc, có tiền rồi thì mình gởi về giúp đở những nguời đã mắng chưỡi mình, họ ngã tay nhận tiền mình cho tức là mình đã trả được thù rồi, chứ bây giờ mình không thể đôi co với họ.
Đầu năm 1982, chồng tôi âm thầm rời bỏ Càng Long lên Sài gòn, tá túc nhà ba mẹ tôi vì lúc ấy ba mẹ tôi đã vào Sài gòn rồi, tôi và các con vẫn còn ở lại. Khi chồng tôi ra đi, em trai tôi cũng bỏ dạy và lên Sài gòn luôn, để lại chiếc ghe cho tôi cùng với ba đứa con thơ, đứa em gái út và Chút, em bé từ Huế vào ở giữ em chỉ mới mười hai tuổi.
Thời buổi “người khôn của khó”, ở những thành phố thì nạn cướp của giết người, trộm cắp, giựt đồ xãy ra hàng ngày có biết bao nhiêu người là nạn nhân đau khổ, thì ở nông thôn nảy sinh ra nạn “ghe lắc”, “xuồng tặc”, vì vậy tôi rất lo chiếc ghe cột ngoài sông bị “ghe tặc” đến lấy đi. Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, tôi đều đốt đèn lên, đi ra nơi cột ghe xem cái dây xích đã khóa kỷ lại chưa, thỉnh thoảng nghe tiếng chó sũa, đang mơ màng ngủ cũng phải dậy, đốt đèn đi ra xem.
Trong lòng không yên, có thời gian cứ nghe chỗ nầy bị mất ghe, chỗ nọ lại mất xuồng, tôi biểu em tôi và Chút ra ghe mà ngủ, nhưng chỉ được ít hôm tôi lại không cho chúng nó ngũ ngoài ghe nữa vì sợ nạn cướp ghe rồi cướp cả người, vì hai đứa là con gái, dù chỉ mới mười hai tuổi nhưng lở gặp tụi “dê xồm” thì chúng đâu có tha, như vậy vẫn phải trở lại như cũ. Một mình tôi gồng gánh việc nhà, vừa lo di dạy, vừa lo cho con, vừa lo giữ ghe làm tôi vô cùng mệt mõi.
Một ngày nọ, đi dạy về không thấy Chút ở nhà, tôi hỏi em tôi, vì đây là hiện tượng lạ, em tôi trả lời là hai đứa gây gỗ, cải vả nhau, em tôi tức quá nên đánh nó một tát tai, vì vậy, nó bỏ nhà đi mất từ lúc tôi mới đi dạy. Chờ đến chiều tối vẫn chưa thấy nó về, tô lo lắm, lo không biết Chút đang ở đâu, ăn đâu, ngũ đâu, điều làm tôi lo nhất là sợ có người xấu dụ dỗ nó rồi dẫn nó đi bán cho những ổ mãi dâm, thì còn gì cuộc đời của nó mà lương tâm tôi cũng sẽ bị dằn dặt suốt đời.
Vì lo sợ quá nên đâm ra tức giận đứa em, tôi bắt em tôi nằm xuống đi văng và đánh nó một roi, bắt nó phải cùng tôi đi tìm Chút về.
Đã gần một tuần lễ rồi mà tôi chưa gặp được Chút, ngày nào đi dạy về, lo cơm nước xong thì tôi đạp xe đi tìm từ xóm này qua xóm khác, hể ai mách bảo thấy nó ở đâu là tôi tìm tới, nhưng thất vọng vì thứ nhất là nó lánh mặt, thứ hai là chủ nhà chối bởi vì chị ta muốn giữ nó lại nhà mình để lợi dụng nó làm việc nhà.
Tôi khổ sở biết bao, một ngày kia, mấy đứa con gái của anh Út, nói với tôi:
- Cô ba ơi, tối nay tụi con có hẹn với con Chút gặp nhau trước rạp chiếu bóng để vào xem, tụi con sẽ bàn với nó không muốn xem nữa, về nhà con làm bánh ăn cho vui, lúc ấy, tụi con đóng cái cửa sau lại, chỉ dể cái cửa phía trước, cô ba vào bắt nó thì nó không thể chạy dược.
Tối hôm đó, đi ra rạp hát, thấy Chút và lũ con anh Út đứng đàng cửa bán vé, tôi tiến lại gần nhưng núp trong bóng tối, tôi thấy có cả anh Út và Tiến, con trai lớn của anh cũng đứng trong sân rạp hát, hóa ra là sợ tôi rượt theo Chút không kịp nên hai cha con đi theo giúp, thật là cảm động.
Đứng chờ gần nửa tiếng mới thấy cả đám con gái rời rạp hát để đi về phía nhà anh Út, cũng là phía nhà tôi, đám con gái đi trước, tôi bén gót theo sau, cách chừng mười mét. Hai đứa con gái lớn của anh Út đã có ý tứ, nên đi hai bên, kẹp Chút ở giữa, hai đứa làm bộ nói chuyện để Chút không nhìn quanh, cha con anh Út cũng đi theo sau cùng với tôi. Chúng tôi im lặng, chỉ gật đầu chào nhau mà thôi, sợ lên tiếng Chút nghe được. Đến nhà anh Út, mấy đứa kéo nhau vào, chúng nó làm gì bên trong tôi không biết vì chỉ đứng phía trước mà chờ. Được hơn nửa tiếng đồng hồ, tôi theo cửa trước đi vào, xuống dưới bếp, thấy tôi, Chút toan chạy trốn nhưng cửa phía sau đã bị khóa lại bằng cái khóa xe đạp, cho dù cánh cửa bằng tre thì Chút cũng không thể đá tung ra để chạy, tôi cất tiếng gọi Chút lại, cầm tay nó và nói:
- Dì đã biết chuyện xãy ra giữa con và LyLy rồi, dì đã đánh nó rồi, cả tuần nay dì tìm con khắp mấy xóm, nhưng dì biết con thấy dì mà trốn, nên dì buồn lắm, thời gian qua con vào ở với dì, dì thương con như con cháu, con chỉ việc chơi với các em thôi chứ dì chẳng cho con làm gì cả, ngay cả áo quần của con dì cũng giặt cho con, con giận LyLy rồi bỏ nhà đi như vậy, lở gặp kẻ xấu dụ dỗ con, đem con bán qua Campuchia làm nghề mải dâm thì tan nát cuộc đời, vì lo như vậy nên đi dạy về là dì đạp xe đi tìm con, con có biết không?
Chút khóc và nói:
- Con biết dì thương con, con có thấy dì trong xóm ngoài chợ nhưng bà chủ nhà cho con ở bảo con trốn đi, không thôi dì thấy, dì bắt về dì đánh đòn nên con sợ mới trốn.
Thấy nó khóc ướt cả mặt làm tôi cũng khóc theo, tôi nói:
- Dì không bao giờ đánh con đâu, thôi về với dì.
Vậy là nó theo tôi về nhà, tôi bắt con em xin lỗi Chút và cho hai đứa bắt tay làm huề. Vì nó mồ côi cả cha lẫn mẹ, chị nghèo nuôi không nổi nên tôi thương nó lắm, tôi có ý định từ từ, khi tôi đổi lên dạy trên Sài gòn thì sẽ cho nó đi học may hay uốn tóc, để khi lớn lên nó có một nghề. Nó cũng thương các con tôi lắm.
Năm 1984, khi chúng tôi ở Sài gòn, có người dì của Chút lại nhà, xin cho Chút về Huế ăn Tết, tôi cho phép nó về Huế ăn Tết xong rồi vào lại, cuối cùng nó chịu đi với dì, tôi chờ mỏi mòn vẫn không thấy nó trở lại, có hỏi người quen ở Huế thì được biết nay thấy nó đã lớn, có thể làm được nhiều việc rồi nên dì nó bắt theo luôn. Tuy thương Chút nhưng tôi cũng tự an ủi rằng bà kia cũng là dì của nó, máu mủ của nó, chắc không làm hại cuộc đời của nó.

Một mình tôi xoay xở mọi việc thay chồng làm tôi mệt mỏi quá, nhất là niên học 1982-1983, hiệu trưởng Huỳnh đã “đì” tôi tối đa, không cho tôi làm tổ trưởng tổ xã hội, cũng không cho tôi làm giáo viên chủ nhiệm lớp mười hai nữa mà thay vào bằng cô Mỹ, là cô giáo ra trường năm trước, rồi chia thời khóa biểu cho tôi dạy chương trình văn lớp mười, lớp mười một, lớp mười hai, tổng cộng mỗi tuần lên lớp ba mươi lăm tiếng. Tôi phải dạy cả buổi sáng lẫn buổi chiều, như vậy là quá sức cho một người lên lớp. Thời gian này, tôi đã đưa các con, đứa em và Chút lên Sài gòn ở nhờ ba mẹ tôi rồi, nhà ở mé sông và chiếc ghe cũng bán rồi, nên tôi ở nhờ nhà cô Đinh Ngọc Hồng, cô đang ở nhà một mình, đã gởi con lên Vĩnh Long cho ông bà ngoại giữ vì anh Ninh đang đi tu nghiệp xa cả năm trời mới xong.
Sở dĩ tôi đã bán nhà, bán ghe vì tôi đang nộp đơn xin thuyên chuyển lên Sài gòn, về dạy để chờ giấy quyết định thuyên chuyển. Nhà của cô Hồng ở dưới cái dốc cầu Mây tức, đến trường xa gấp mấy lần từ nhà tôi đến trường nên tôi giữ lại chiếc xe đạp để đi. Dù thấy hiệu trưởng Huỳnh chia giờ cho tôi không hợp lý nhưng tôi cũng cố gắng dạy vì nghĩ rằng chỉ dạy một thời gian ngắn thôi rồi sẽ nhận được quyết định thuyên chuyển của Ty. Thế nhưng thật ra hiệu trưởng Huỳnh đâu có chuyển đơn lên Ty đâu, anh ta “ém lại”, vì vậy chờ đợi mấy tháng trời vẫn không thấy gì cả. Vì dạy quá nhiều giờ làm tôi mõi mệt, một hôm đang dạy tự nhiên chóng mặt muốn xỉu, tôi phải ra nhà chị Năm Hoài ở trước trường để nhờ chị cạo gió giúp. Sau đó, tôi mới nói với hiệu trưởng Huỳnh:
- Anh chia giờ thật là vô lý, bắt tôi phải lên lớp mỗi tuần đến ba mươi lăm tiếng, trong khi chia cho cô Mỹ và thầy Nguyện mỗi người chỉ mười tiếng mà thôi, như vậy thật là không công bằng.
Anh trả lời:
- Sở dỉ chia cho cô Mỹ và thầy Nguyện lên lớp mười tiếng mỗi tuần là vì họ còn làm việc cho đoàn nửa.
- Đoàn đâu sinh hoạt mỗi ngày, chỉ lâu lâu mới họp thì đâu kể là làm việc nhiều giờ.
- Cô cứ nói với cô Mỹ và thầy Nguyện, nhờ họ nhận dạy dùm cô một vài lớp chứ tôi nói thì họ bảo rằng tôi ép buộc.
Nghe hiệu trưởng Huỳnh nói như vậy, tôi đi gặp cô Mỹ và thầy Nguyện để nhờ họ nhận giúp tôi vài lớp. Họ trả lời:
- Em sẵn sàng nhận dạy cho chị vài lớp, nhưng chị nói với anh Huỳnh lên tiếng với em chứ em không thể tự nhận dược.
Tôi đi gặp hiệu trưởng Huỳnh, nói y chang câu nói của cô Mỹ và thầy Nguyện, hiệu trưởng Huỳnh vẫn trả lời giống y như trước. Tôi đã tìm gặp hiệu trưởng Huỳnh cũng như cô Mỹ và thầy Nguyện đến năm lần bảy lượt, họ chỉ trả lời câu ấy. Tôi biết hiệu trưởng Huỳnh và hai người trẻ kia đã “đồng lòng” với nhau “đè” tôi xuống.
Một hôm, có mặt hiệu trưởng Huỳnh và thầy Dờn trong văn phòng, tôi vào gặp và nói thẳng vào mặt hiệu trưởng Huỳnh rằng:
- Tôi biết anh đang “đì” tôi nên bày trò cho cô Mỹ và thầy Nguyện nói “đu đưa” như vậy, bây giờ tôi không muốn làm việc dưới quyền của anh nữa vì anh không xứng đáng. Từ trước đến nay, thầy cô nào nộp đơn xin thuyên chuyển thì anh đều “ém” hết, không chuyển lên Ty, để cho họ chán quá mà tự nghỉ, do đó tôi không hy vọng gì đơn của tôi đã được anh chuyển lên Ty, nhưng dù không được thuyên chuyển thì tôi cũng tự nghỉ, tôi không nhìn cái bản mặt của anh nữa. Nhưng nói cho anh biết, tôi rất yêu nghề giáo, mà vì lòng dạ hẹp hòi của anh làm tôi không được tiếp tục đi dạy nữa, tôi đành phải ra chợ trời làm nghề “mánh mung” mà sống, tôi sẽ bị thoái hóa, không còn giữ được cái đạo đức của tôi nữa thì lỗi đó là do anh.
Thầy Dờn tiếp lời:
- Bấy lâu nay em rất kính phục chị, vì chị rất thẳng tính, có gì sai hay bất bình là chị nói ngay chứ không phải nói ngon ngọt, rồi chẳng làm gì cả. Trước mặt anh Huỳnh đây, em hứa danh dự với chị, chị viết đơn khác rồi đưa cho em, em sẽ chuyển lên Ty, tự tay em làm cho chị.
Tôi về viết đơn xin thuyên chuyển khác và đưa cho thầy Dờn, để chắc ăn, tôi rủ Thân ở cùng xóm, cũng là giáo viên cấp một, đi cùng tôi lên Ty giáo dục Cửu Long để gặp chú Hai Hiều, là Trưởng ty và cũng là cậu ruột của Thân. Gặp chú hai Hiều, tôi nói:
- Thưa chú, con không muốn làm việc dưới quyền của hiệu trưởng Huỳnh nữa vì anh ta không biết điều, thượng đội hạ đạp, con không phục, xin chú cho con thuyên chuyển lên Sài gòn để gần ba mẹ con.
Chú hai nhiệt tình nói với tôi:
- Nếu con không muốn làm việc với hiệu trưởng Huỳnh thì con cứ chọn bất cứ trường nào ở Ty, chú sẽ cho con về đó. À, hay là con về dạy trường Cấp III Trà Vinh cho gần gia đình.
Trong lòng tôi chỉ muốn được lên Sài gòn thôi, cho nên tôi trả lời:
- Thưa chú, con chỉ muốn được dạy trên Sài gòn thôi vì ba mẹ con đã đưa gia đình vào sống ở Sài gòn rồi, con không muốn dạy bất cứ trường nào tại Ty Cửu Long hết, xin chú chuyển đơn của con lên Ty trên Sài gòn.
Nói qua nói lại một hồi, tôi vẫn đòi được chuyển lên Sài gòn nên chú hai Hiều hứa:
- Thôi, ý con đã nhất quyết như vậy rồi thì chú sẽ chuyển đơn của con lên đó.
Tôi cám ơn chú hai Hiều và ra về với lòng phơi phới. Vài ngày sau tôi từ giả những người bạn đồng nghiệp, những phụ huynh học sinh mà tôi quen thân, bà con, xóm giềng rồi đi Sài gòn, chấm dứt một cuộc sống ở quê chồng đầy buồn vui, gian khổ !

Connecticut, ngày sinh nhật của tôi
01/05/2013

Nguyễn Ánh





( Trở về đầu trang )


[ Trang Hải Trình ]