trang mở đầu || LVChâu lời chào mừng || CVThành những HC2 lìa đàn || HC2 chuyến hải trình của những chai CB từ OC đến Montréal || TDTín 12 bến nước, 13 bến tình || Chị TPHồng đại hội HC2 || Chị NVThước những ngày vui ở Canada || NVHùng mắt lệ cho người || TKHoàng tường trình ĐH2012 || Chị NVThước cảm nghĩ về ĐH2012 || HC2    trang bìa || TTĐức    tâm thư || CVThành    lời nói đầu || BBT    hội ngộ ||  CVThành    mây trôi lang thang || Chị NVThước    vỉnh biệt nvnlãng || NTTánh    cửa việt, những hồi ức || NĐHoàng    chuyện của SVSQ ẩm thực || TDTín    bạn thân || HKChiến    HQ402 ||  HC2    dzĩ dzãng dzá dzíu chạy dzìa || NVHùng    những vì sao chợt tắt trong chòm HC2 || NTTánh    bảo tình || LVChâu    tình yêu trên cao || NTTánh    chuyến vượt biển tìm tự do || LNQuang    thơ cvt || CVThành    4 mùa thương nhớ || LVLai    tính một đàng sang một nẽo || VHLý    mùa xuân đã qua chưa || NTTánh    vài chặng đường đã qua || TĐQuí    đít gà và bò cạp || Chị NVThước    thơ lkc&hvb || LKCúc&HVBảnh    hoàng sa và em || NTTánh    chuyện ma của bác khảm rổ || ĐNKhảm    connecticut, 4 mùa || Chị LVTài    gà trống nuôi con || HKChiến    thơ đnv || ĐNViêm    những ngày tháng không quên || Chị LVTài


tính một đàng sang một nẻo

       Chiếc “ta-xi”, một chiếc ghe máy nhỏ được dùng để chuyển người hoặc dầu nhớt, mà mọi người đang trông-đợi chợt xuất-hiện trong đêm tối và đang tiến lại gần “cá lớn”, một chiếc ghe đánh cá được dùng để chở người vượt biển, đang thả trôi ở khoảng cách độ 300 mét phía nam cù-lao Long-Sơn, một đảo nhỏ nằm về phía bắc và cách núi lớn Vũng-Tàu độ 10 cây-số. Trên cá lớn, ngoại trừ gia-đình và thân-quyến của chủ ghe ở trên ca-bin, tất cả các hành-khách khác đều ở trong các khoang hầm phía trước hoặc sau ca-bin. Trong hầm máy bên dưới ca-bin, giàn máy 3 lốc đang nổ giòn tại chỗ để chuẩn-bị cho cuộc hải-hành. Trên sân lái, một nhóm nhỏ đàn ông đang đợi để đón những người mới đến và nhận những can dầu 20 lít từ ghe ta-xi. Ngoài kia, biển hơi động. Sóng gió đang ùa vào tả mạn cá lớn buộc chiếc ghe ta-xi phải chạy vòng ra phía sau lái rồi cập vào hữu mạn để núp sóng và chuyển người lên một cách an-toàn. Một người nào đó trên sân lái cá lớn chợt lớn tiếng hỏi:
- Có phải bác Tỵ đó không?
Tiếng một ông già trên ghe ta-xi trả lời:
- Phải! Tôi đây.
- Bà con mình đủ cả chứ?
- Không!
- Tại sao?
- Nhiều người đã không có mặt tại điểm hẹn.
- Có thấy chiếc ta-xi nào khác không?
- Không.
Người trên cá lớn khựng lại vài giây rồi lo-lắng hỏi:
- Lạ thật! Hay là họ bị bắt hết rồi?
Không có ai trả lời. Cuộc đối-thoại im bặt. Từ trong phòng lái cá lớn, tôi bước nhanh ra sân lái, chăm-chú quan-sát. Trong bóng đêm mờ-ảo, khoảng một chục người đàn ông được kéo thật nhanh từ ghe ta-xi lên sân lái cá lớn, rồi tiếng của ông Tỵ, chủ ghe ta-xi, vang lên rõ mồn-một:
- Chúc tất cả bà con đi bình-an.
Một người nào đó đáp lại:
- Cám ơn bác Tỵ. Quay về cẩn-thận nhé.
- Được rồi! Đừng lo cho tôi.
Dứt lời, ông Tỵ cho ghe ta-xi tách ra khỏi cá lớn. Tôi vội-vã gọi lớn:
- Khoan đã! Cho cháu về với bác Tỵ ơi.
- Không được đâu! Ông Tá ổng rủa tôi chết.
Ngay lúc này, cá lớn bắt đầu di-chuyển, và tiếng của ông Tá vang lên trong phòng lái:
- Giữ ông ấy lại. Mình phải đi ngay kẻo bị công-an bắt.
Cùng lúc ấy ở ngoài sân lái, con rể ông Tá là Nam và một người bà con của tôi là chú Ngọc chụp lấy tôi lôi tuột vào ca-bin. Tôi vùng-vẫy la lên:
- Tôi không muốn đi nữa. Hãy để tôi trở về với ghe ta-xi.
Mặc cho tôi phản-kháng, hai người này kéo tôi ngồi xuống ở cửa sau ca-bin rồi giữ chặt lấy tôi. Một lát sau, chú Ngọc buông tôi ra nhưng Nam thì không. Anh ta lắc cánh tay tôi và nói:
- Chúng tôi đâu có ngờ là vợ con anh bị bỏ rơi lại.
- Các người đã gạt tôi. Hãy để tôi trở về.
- Bây giờ ghe đang chạy. Làm sao anh về được?
- Hãy thả tôi lên một cù-lao hay một hàng đáy nào đó.
- Không có anh thì ghe đi sao được?
Nam ngừng một lát, rồi nói như để trấn-an tôi và cũng để tự an-ủi anh ta:
- Vợ và con trai tôi hiện giờ vẫn còn ở nhà. Mình qua Mỹ rồi bảo-lãnh vợ con cũng được vậy.
Chú Ngọc xen vào:
- Điều Nam nó nói là thật đấy.
Tôi lắc đầu cả-quyết:
- Không! Tôi phải trở về.
Một người nào đó trong góc bên trái ca-bin sát phòng lái chợt lên tiếng nói với tôi:
- Bác ơi! Xin hãy làm phước. Nếu bác không đi thì hàng trăm mạng chúng tôi trên ghe này giao cho ai?
Tôi nín thinh. Chú Ngọc tần-ngần một lát rồi vào ca-bin. Nam buông tôi ra rồi đứng dậy đi lên phòng lái. Trong phút chốc, máy ghe chợt rú lên, và cá lớn tức-thì tăng vận-tốc chạy vùn-vụt trên biển. Trong tình-thế bất-khả-kháng này, tôi đành phải ngồi im chịu trận, rồi tự trách mình là đã quá tin ông Tá nên vợ con mới bị bỏ rơi lại và mình thì bị bắt-buộc phải ra đi mà không thể trở về được.
Mới chiều hôm kia, sau khi dẫn vợ và con gái mới hai tuổi và ba thanh-niên đang trốn nghĩa-vụ quân-sự là Lập, Khanh, và Tấn đến bến xe Bà-Rịa, tôi bảo mọi người ngồi nghỉ như đang đợi xe, rồi một mình vào một tiệm tạp-hóa trong chợ để gặp người chủ tiệm, cũng là chủ của chiếc ghe vượt-biên này, là ông Tá, trạc 60 tuổi, và con rể ông ta là Nam, trạc trên 30 tuổi như tôi.
Theo sự thỏa-thuận thì tôi, với tư-cách là “tài-công”, từ-ngữ người vượt-biên dùng để gọi người hoa-tiêu sẽ hướng-dẫn ghe vượt biển, có thể đem theo vợ con và hai người nữa. Do đó, tôi đã cho em vợ tôi là Lập và em họ tôi là Khanh đi miễn phí. Nhưng cho Tấn, em vợ cậu út vợ tôi, tôi đã phải đưa cho chú Ngọc, người đã giới-thiệu tôi làm tài-công cho ghe này, một cái ống nhòm của quân-đội, một tấm hải-đồ, và 1000 đồng. Dĩ nhiên là cha mẹ Tấn phải trả các chi-phí này.
Ngoài ra, để giữ một chỗ cho anh họ tôi là Tuân, người đã cùng tôi và một toán lính nhảy-dù băng rừng-sát từ bến ghe xứ-đạo chúng tôi ra Cát-Lở, Vũng-Tàu vào cuối tháng 4 năm 1975, tôi đã phải đưa cho chú Ngọc một cái hải-bàn, loại được sử-dụng trên duyên-tốc-đĩnh PCF (Patrol Craft Fast) của Việt-Nam Cộng-Hòa trước kia. Cái hải-bàn này Tuân đã mua và đem theo trong một cuộc vượt-biên từ xứ đạo chúng tôi vào năm ngoái. Tuy nhiên, khi anh ta cùng gia-đình và khoảng một trăm người vượt-biên khác, trong đó có gia-đình tôi, bị công-an bao-vây ở bến ghe, Tuân đã bí-mật chôn cái hải-bàn ở đấy để chạy trốn, rồi rời xứ đạo ra sống với bố mẹ vợ ở Bến-Đá, Vũng-Tàu để tránh bị bắt. Gần nửa năm trước đây, Tuân đã nhờ tôi đào lên, cất dấu, và dùng cái hải bàn này để sắp-xếp cho anh ta vượt-biên cùng với chúng tôi. Mặc dù biết rằng việc đào lên, cất dấu, và nhất là di-chuyển từ nơi này đến nơi khác một cái hải-bàn rất nguy-hiểm, tôi vẫn làm tất cả để giúp Tuân.
Mặc dù chi-phí cho Tấn hoặc Tuân đều ít hơn lệ-phí cho một hành khách bình-thường, ông Tá đã chấp-thuận để ràng-buộc tôi với ghe của ông ta.
Theo kế-hoạch thì trong ngày hôm kia, ông Tá và Nam phải “ém” khách, tức là bí-mật đón và dấu những người khách vượt-biên để họ không bị công-an bắt trong khi chờ đợi được chở bằng ghe taxi ra ghe lớn, và tôi phải đem gia-đình, bao gồm vợ con tôi và ba thanh-niên, lên Bà-Rịa cho ông Tá ém. Sau đó, vào tối ngày kế-tiếp, tức là tối hôm qua, hai người này phải đem ghe lớn từ một bến ghe ở Bến-Đá vào điểm hẹn, và tôi phải đi ghe ta-xi ra ghe lớn sớm để quan-sát đề-phòng mọi bất-trắc và chuẩn-bị cho cuộc hải-hành.
Để chắc ăn, tôi đã yêu-cầu ông Tá dấu gia-đình tôi ở cùng một nơi và chở ra ghe lớn trên cùng một chuyến ghe ta-xi với những người bà con của ông ta. Tôi đã không phải lo cho Tuân vì anh ta thường từ nhà bố mẹ vợ anh ta ở Bến- Đá ra bến ghe ở đây để thăm-dò tình-trạng của ghe lớn nên đã tự dàn-xếp với ông Tá.
Do đó, khi tôi vào tiệm, ông Tá liền gọi hai người đàn ông từ bên ngoài vào dặn-dò một hồi, rồi bảo họ đi theo tôi ra bến xe. Sau khi hai người này dẫn vợ con tôi và ba thanh-niên vào thị-xã, tôi trở lại tiệm và chứng-kiến những người khách vào nộp lệ-phí cho ông Tá để được ém trong thị-xã.
Vào thời- điểm giữa năm 1980 này, khi lương tháng của một thầy giáo là 60 đồng, giá một kí-lô gạo là 5 đồng, và giá mỗi “cây”, từ-ngữ người vượt-biên dùng để gọi một lượng vàng, là 1700 đồng thì mỗi người khách vượt-biên phải trả một lệ-phí là 3 cây, tức là 3 lượng vàng. Trẻ con chỉ phải trả một nửa, nhưng có nhiều trường-hợp dù cha mẹ sẵn-sàng trả nguyên lệ-phí cho một đứa trẻ, người tổ-chức hoặc chủ chiếc ghe vượt-biên vẫn từ chối vì sợ đứa trẻ có thể khóc-lóc làm cho chuyến đi bị bại-lộ.
Tùy theo sự quan-hệ với người tổ-chức, một người khách có thể phải trả trước toàn-bộ lệ-phí, hoặc chỉ một phần rồi trả phần còn lại sau khi đã lên ghe lớn hoặc đã vào trại tị-nạn. Đàng khác, người khách chỉ cần trả một phần nhỏ để đi, rồi gởi thơ từ trại tị-nạn về bảo người thân trả phần còn lại cho người tổ-chức ở Việt-Nam. Hơn thế nữa, cũng có những người khách được cho đi rồi trả góp sau khi đã định-cư ở nước ngoài.
Theo những người khách của ông Tá thì lệ-phí 3 lượng vàng là một tài-sản rất lớn vào lúc này, nhưng họ sẵn-sàng chi ra chỉ vì muốn trốn khỏi chế-độ cộng-sản ở Việt-Nam.
Thật vậy, kể từ ngày 30 tháng Tư năm 1975, ngày miền Nam Việt-Nam rơi vào tay Cộng-Sản Bắc-Việt, phong-trào bỏ nước ra đi tìm tự-do đã bộc-phát và tăng rất nhanh vì mọi người đều thấy rằng cộng-sản không chỉ vô-cùng độc-tài, mà còn rất tráo-trở, tham-lam, và tàn-ác. Ngay sau khi chiếm-đóng các cơ-sở hành-chánh, dinh-thự, và căn-cứ quân-sự của Việt-Nam Cộng-Hòa, Cộng-Sản Bắc-Việt đã sử-dụng vũ-khí và bạo-lực để đàn-áp, bóc-lột nhân-dân, và vơ-vét của-cải. Chúng vơ-vét và chở về miền Bắc Việt-Nam mọi thứ xe-cộ, máy-móc, dụng-cụ, vật-liệu, bàn ghế, máy thu-thanh, máy vô-tuyến truyền hình, tủ-lạnh, và các khí-cụ điện khác. Chúng vơ-vét quá nhiều đến nỗi người dân miền Nam Việt-Nam đã gọi chúng là “Giặc 4 V”, bao gồm Vào Vơ Vét Về, và dùng thành-ngữ “Toàn-Bộ Chính-Quyền Vơ-Vét” để ám-chỉ mọi thành-phần nhân-sự trong chính-phủ và quân-đội của chúng.
Cùng lúc đó, Cộng-Sản Bắc-Việt, bao gồm Bộ Chính-Trị Đảng Lao-Động Việt-Nam và Chính-Phủ Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa của chúng, đã dựng nên hai cái gọi là Chính-Phủ Cách-Mạng Lâm-Thời Cộng-Hòa Miền Nam Việt-Nam và Ủy-Ban Quân-Quản để cai-trị Miền Nam Việt-Nam. Để đề-phòng sự đề-kháng của hàng trăm ngàn sĩ-quan và công-chức của Việt-Nam Cộng-Hòa, chúng lừa gạt họ bằng cách chỉ-thị cho Ủy-Ban Quân-Quản ra lệnh cho các sĩ-quan từ thiếu-úy tới đại-úy của quân-đội và các viên-chức trung-cấp của chính-phủ mang theo 10 ngày tiền ăn, và những ai có cấp-bậc và chức-vụ cao hơn mang theo 30 ngày tiền ăn, để đi học-tập cải-tạo, rồi nhốt họ vô-thời-hạn trong các trại lao-động khổ-sai mà chúng lại gọi là trại cải-tạo.
Vào giữa năm 1976, sau khi sát-nhập Cộng-Hòa Miền Nam Việt-Nam vào Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa ở miền Bắc thành Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN), Cộng-Sản Bắc-Việt đổi tên Đảng Lao-Động Việt-Nam của chúng thành Đảng Cộng-Sản Việt-Nam, và trơ-trẽn tuyên-bố chỉ có đảng của chúng là có quyền lãnh-đạo đất-nước. Trên thực-tế thì bọn đầu-sỏ trong Bộ Chính-Trị Đảng Cộng-Sản Việt-Nam kiểm-soát tất cả, và cái chính-phủ CHXHCNVN, mà chúng tạo ra và giữ tất cả các chức-vụ trọng-yếu, chỉ là công-cụ để chúng áp-bức nhân-dân và vơ-vét của-cải làm giàu cho bản-thân chúng và đảng của chúng mà thôi. Do đó, để nhắc tới Đảng Cộng-Sản Việt-Nam và chính-phủ CHXHCNVN của chúng, người ta có thể nói Cộng-Sản Việt-Nam, Đảng và Nhà-nước, hoặc giản-dị là Đảng, hay Nhà-nước.
Nhằm tiêu-diệt nền văn-hóa của miền Nam Việt-Nam, Cộng-Sản Việt-Nam đóng cửa tất cả các tiệm sách, các nhà xuất-bản, các báo định-kỳ, và các nhật-báo. Đồng thời, chúng ra lệnh cho cán-bộ của chúng đem theo những bọn “cách-mạng 30 tháng Tư”, bao gồm những kẻ chỉ mới đi theo chúng từ khi chúng chiếm được miền Nam Việt-Nam, đi lục-soát bất-cứ nhà nào chúng muốn để tịch-thu sách-vở, báo-chí và các tác phẩm nghệ-thuật, rồi đem chất đống ở ngoài đường và châm lửa đốt hết. Hơn nữa, Cộng-Sản Việt-Nam còn bắt tất cả các tác-giả của những cuốn sách, những bài xã-luận trên các báo định-kỳ hay nhật-báo, hoặc những tác-phẩm nghệ-thuật mà chúng cho là đồi-trụy, phản cách-mạng, hoặc chống cộng, phải đi tù cải-tạo như các sĩ-quan trong quân-đội của Việt-Nam Cộng-Hòa.
Nhằm chiếm-đoạt tài-sản của những người giàu có ở miền nam Việt-Nam, Cộng-Sản Việt-Nam đã dùng chính-sách Đánh Tư-Sản. Chúng lý-luận rằng tất cả các địa-chủ, các nhà kinh-doanh, và các phú-thương đã giàu có là vì họ, cha mẹ họ, hoặc tổ-tiên họ đã bóc-lột nhân-dân lao-động. Do đó tất cả tài-sản của họ phải là của nhân-dân, và “đày-tớ của nhân-dân” là Nhà-nước có bổn-phận phải lấy lại và quản-lý tất cả dùm cho nhân-dân. Sau khi kiểm-kê mọi thứ rồi truy-lùng kim-cương, vàng, tiền, và đô-la bằng cách gỡ cầu tiêu, phá tường, đào nền nhà và đất-đai quanh nhà, bọn đày-tớ của nhân-dân, hay Nhà-nước, còn tịch-thu luôn nhà cửa rồi ép buộc các chủ nhà và gia-đình họ phải đi khai-phá những vùng hoang-vu trong rừng núi mà chúng gọi là Vùng Kinh-Tế-Mới. Do đó, một số những người này đã tự-sát, và hầu hết những người còn lại đã phải tìm mọi cách để trốn ra khỏi nước.
Cùng lúc ấy, Cộng-Sản Việt-Nam cũng dùng chính-sách Bài-Trừ Thương-Mại để tịch-thu mọi thứ hàng-hóa của những người buôn-bán. Chúng lý-luận rằng tất cả những người này, từ phú-thương cho đến những người bán rong, đều là những kẻ lười-biếng, tránh-né lao-động bằng cách chỉ mua đi bán-lại để kiếm lời, nên chúng phải đem họ trở về với lao-động sản-xuất. Trong thực-tế thì chính bọn chúng, Cộng-Sản Việt-Nam, mới là những kẻ lười-biếng, không hề lao-động mà chỉ bóc-lột và ăn-bám người dân lao-động mà thôi.
Nhằm chiếm-đoạt tài-sản của những người Tàu đang sinh-sống ở Việt-Nam, Cộng-Sản Việt-Nam dùng chính-sách Hồi-Hương mà người Việt-Nam gọi là Vượt-Biên Bán-Chính-Thức, cho họ được ra khỏi Việt-Nam bằng đường biển sau khi nộp một số vàng cho Nhà-nước. Số vàng này mới đầu là 4, rồi tăng dần lên tới 12 lượng mỗi người. Lợi-dụng dịp này, một số người Việt đã bỏ tiền ra làm giấy tờ giả để giả làm người Tàu, rồi nộp vàng để ra khỏi Việt-Nam. Vì Nhà-nước chỉ thâu vàng mà không cung-cấp ghe tàu gì cả nên ngoài số vàng phải đóng như đã qui-định, mỗi người còn phải đóng thêm 2 hoặc 3 lượng vàng để người tổ-chức mua hoặc đóng ghe. Sau khi nộp danh-sách những người đi và đóng đầy-đủ số vàng theo qui-định, người tổ-chức được Nhà-nước cho phép mua hoặc đóng một chiếc ghe để chở khách của mình ra khỏi Việt-Nam. Những chiếc ghe này thường dài từ 20 mét trở lên, và một số chiếc có hai tầng, nên mỗi chiếc có thể chở vài trăm người. Trước khi ghe khởi-hành, bọn công-an địa-phương dùng một danh-sách để kiểm-soát những người khách trước khi cho họ lên ghe. Ngoài ra, mỗi chiếc ghe này luôn-luôn phải chở thêm vài chục người ngoài danh-sách, nhưng được cho đi vì mỗi người đã nộp cho bọn công-an địa-phương vài lượng vàng.
Mặc dù một vài ghe hồi-hương, còn gọi là ghe vượt-biên bán-chính-thức, đã chìm ở trong sông hoặc ven biển Việt-Nam mà người ta cho rằng công-an địa-phương đã gây ra để vơ-vét thêm kim-cương và vàng bạc của những người ra đi, số người xin hồi-hương vẫn tăng. Khôi-hài thay, thay vì đi về Trung-Quốc hoặc Đài-Loan, tất cả những ghe hồi-hương đã đi Hồng-Kông, Thái-Lan, Mã-Lai, hoặc Tân-Gia-Ba, và những người Tàu hồi-hương đã lấy lý-do trốn chạy cộng-sản để vào các trại tị-nạn của Liên-hiệp-Quốc, rồi đi định-cư ở một nước tự-do, đặc-biệt là Hoa-Kỳ.
Nhằm chiếm-đoạt nhà-cửa của nhân-dân trong thành-phố, Cộng-Sản Việt-Nam dùng chính-sách Kinh-Tế-Mới. Bất cứ gia-đình nào đang ở trong tình-trạng không có việc làm hoặc có việc làm nhưng bị các cán-bộ Nhà-nước xếp vào loại không lao-động sản-xuất đều bị tịch-thu nhà cửa rồi chở đến những vùng núi đồi hoang-dã mà chúng gọi là Vùng Kinh-Tế-Mới. Sau khi đến nơi, mỗi gia-đình được cấp-phát một túp lều tranh giột-nát, một mảnh đất hoang, và vài thứ dụng-cụ canh-tác để phá rừng, dọn đất, và trồng cấy để sinh sống. Đàng khác, một gia-đình có việc làm lao-động sản-xuất thì không phải đi vùng Kinh-Tế-Mới, nhưng nếu nhà của gia-đình này lớn thì cả gia-đình phải ở phía sau nhà vì phía trước bị trưng-dụng làm trụ-sở của Nhà-nước hoặc nơi ở cho cán-bộ hay bộ-đội.
Nhằm kiểm-soát và bóc-lột người lao-động, Cộng-Sản Việt-Nam dùng chính-sách Hợp-Tác-Xã và Quốc-Doanh để bắt buộc người lao-động thuộc mọi ngành nghề phải vào tập-thể. Từ thành-thị đến thôn-quê, chúng lập ra các cơ-sở hợp-tác-xã quốc-doanh, trong đó người lao-động được ghi điểm cho mỗi ngày làm việc, rồi tùy theo tổng-số điểm trong tháng để lãnh một số tiền công và mua vài thứ nhu-yếu-phẩm với giá chính-thức. Mặc dù tiền công và nhu-yếu-phẩm không đủ sống, hầu hết những người lao-động ở thành-thị đã phải chạy-chọt để được một việc làm như thế để gia-đình họ khỏi phải đi Vùng Kinh-Tế-Mới. Thêm vào đó, Cộng-Sản Việt-Nam còn bắt nhân-dân, kể cả các trẻ con tiểu-học, phải tham-gia “Lao-động Xã-Hội-Chủ-Nghĩa”, tức là làm việc không công cho Nhà-nước vào cuối tuần và những ngày lễ.
Nhằm kiểm-soát và kềm-chế nhân-dân miền Nam như chúng đã đã làm đối với nhân-dân miền Bắc trong ba thập-niên vừa qua, Cộng-Sản Việt-Nam dùng chính-sách “Bần-Cùng-Hóa Nhân-Dân và Kiểm-Soát Bao-Tử” để bắt buộc mọi người phải làm việc từ sáng đến tối để kiếm ăn, và do đó không còn thì-giờ hoặc sức-lực để nghĩ đến việc chống lại chúng.
Để bần-cùng-hóa nhân-dân, Cộng-Sản Việt-Nam cướp-đoạt tiền-bạc bằng các cuộc đổi tiền. Vào cuối tháng 9 năm 1975, chúng thình-lình ra lệnh cho nhân-dân ở miền Nam Việt-Nam nội trong một ngày phải đổi tiền theo trị-giá 500 đồng Việt-Nam Cộng-Hòa (VNCH) bằng 1 đồng Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa (VNDCCH) của chúng. Đồng thời chúng cấm tất cả mọi sự đi lại từ tỉnh này sang tỉnh khác để người dân không thể xoay-xở, và qui-định mỗi gia-đình chỉ được đổi tối-đa 100.000 đồng VNCH để lấy 200 đồng VNDCCH mà thôi. Sau giới-hạn này, Nhà-nước tự-động quản-lý dùm bằng cách thâu tất cả số tiền VNCH còn lại và cấp cho gia-đình một giấy biên-nhận. Từ đó về sau, trong trường-hợp khẩn-cấp như sửa chữa nhà cửa, bịnh-tật, hay tang-chế, gia-đình này phải nộp đơn với Nhà-nước để xin lại một ít tiền của mình. Sau khi nhận đơn, Nhà-nước luôn-luôn điều-tra và quyết-định số tiền được phép sử-dụng cho trường-hợp ấy trước khi phát ra cho gia-đình. Vào thời-điểm đổi tiền lần thứ nhất này, giá 1 ký-lô gạo là 250 đồng VNCH hay là 50 xu VNDCCH. Nhưng chỉ vài năm sau, giá 1 kí-lô gạo đã lên đến 2 đồng VNDCCH.
Vào năm 1978, tức là hai năm sau khi sát-nhập Cộng-Hòa Miền Nam Việt-Nam (CHMNVN) vào Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa (VNDCCH) ở miền bắc Việt-Nam để thành-lập Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN), Cộng-Sản Việt-Nam in tiền CHXHCNVN rồi ra lệnh cho nhân-dân nội trong một ngày phải đổi tiền theo trị-giá 2 đồng VNDCCH bằng 1 đồng CHXHCNVN. Giống như trong lần đổi tiền trước, chúng cũng cấm tất cả mọi sự đi lại từ tỉnh này đến tỉnh khác để người dân không thể xoay-xở, và qui-định mỗi gia-đình chỉ được đổi và nhận tối-đa là 200 đồng CHXHCNVN. Nếu gia-đình nào vẫn còn tiền VNDCCH thì Nhà-nước cũng thâu hết, rồi chỉ phát ra từng ít một cho gia-đình trong các trường-hợp khẩn-cấp mà thôi. Đồng tiền mới cũng mất giá rất nhanh đến nỗi vào đầu năm 1980 này, giá một kí-lô gạo đã là 5 đồng CHXHXNVN.
Để kiểm-soát bao tử của mọi người dân, Cộng-Sản Việt-Nam cấm ngặt việc chuyên-chở các nhu-yếu-phẩm như gạo, thịt, cá, củi, than, cà-phê, thuốc lá, và thuốc tây, rồi đặt rất nhiều trạm kiểm-soát để khám-xét xe-cộ và tịch-thu những thứ này. Đồng thời, chúng nắm hết quyền chuyên-chở và phân-phối các loại nhu-yếu-phẩm, nhưng chỉ bán ra cho dân một số lượng rất hạn-chế theo giá chính-thức. Do đó các nhu-yếu-phẩm trong thị-trường chợ đen, mà chúng bán ra hoặc nhân-dân lén-lút đem từ thôn-quê vào các thành-phố, đã trở nên đắt giá đến nỗi dù làm việc đầu tắt mặt tối, hầu hết nhân-dân vẫn phải bán quần áo và bàn ghế trong nhà để có tiền mua một ít gạo, bo-bo, bắp, khoai lang, và khoai mì để trộn với nhau trong những bữa ăn của họ.
Nhằm chiếm đóng Cao-Miên, Cộng-Sản Việt-Nam đã ra lệnh cho tất cả các thanh-niên ở miền Nam Việt-Nam, đặc-biệt là những người ở lứa tuổi 18, phải đi nghĩa-vụ quân-sự. Tuy nhiên, sau khi bị bắt vào bộ-đội rồi đưa sang Cao-Miên, một số người trong bọn họ đã trốn sang Thái-Lan để đến các trại tị-nạn của Liên-Hiệp-Quốc.
Cuối cùng, nhằm trả thù tất cả các cựu quân-nhân và công-chức của Việt-Nam Cộng-Hòa, Cộng-Sản Việt-Nam áp-dụng chính-sách Lý-Lịch để xếp họ và con cái họ vào thành-phần “Ngụy” luôn chống-đối chế-độ. Sự phân-biệt này đã làm cho họ không thể kiếm được việc làm và con cái họ không thể vào được đại-học. Hơn nữa, tất cả những ai được thả về từ các trại tù cải-tạo đều luôn-luôn bị theo-dõi và có thể bị bắt lại bất-cứ lúc nào bởi công-an địa-phương nơi họ cư-ngụ.
Vì những lý-do trên mà mặc dù biết rằng những người vượt-biên có thể bị Cộng-Sản Việt-Nam bắt bỏ tù, bị chết chìm vì bão-tố, hoặc bị hãm-hiếp, đánh-đập, và giết-chết bởi hải-tặc Thái trên biển hoặc cướp có vũ-khí ở trong rừng, rất nhiều người Việt-Nam vẫn liều mạng vượt biên để thoát khỏi ách cộng-sản. Số người vượt-biên càng ngày càng tăng nhanh đến nỗi người ta bảo nhau rằng nếu các cột đèn có chân thì chúng cũng vượt-biên. Trên thực-tế, ngoài một số người đi đường bộ băng qua Cao-Miên sang Thái-Lan để vào các trại tị-nạn của Liên-Hiệp-Quốc, hầu hết những người vượt-biên đều là những thuyền-nhân rời Việt-Nam trên những chiếc ghe đánh cá, lênh-đênh trên biển cả tuần lễ hoặc lâu hơn, để tìm đến bến-bờ tự-do.
Sau gần hai giờ đồng hồ ở lại trong tiệm tạp-hóa để chứng-kiến những người khách vào nộp lệ-phí cho ông Tá trước khi được ém trong thị-xã, tôi nhận thấy mọi việc đều suông-sẻ nên đã rời tiệm để về nhà trong xứ đạo Thánh Tô-Ma, ở phía tây và cách Bà-Rịa khoảng năm cây số. Sáng ngày kế tiếp, tức là sáng hôm qua, tôi trở lại tiệm tạp-hóa để thăm-dò và ngạc-nhiên thấy ông Tá, Nam, và hai người lạ trạc 30 tuổi đang đón thêm khách. Theo lời Nam thì hai người này là Hà và em anh ta là Sơn. Cả hai đều còn độc-thân và đang sống trong một xứ đạo ở Sài-Gòn với mẹ là em gái của ông Tá. Độ một giờ sau, tôi hẹn gặp bốn người đàn ông này vào buổi tối trên ghe lớn rồi ra về.
Khoảng ba giờ chiều, tôi chuẩn-bị lên đường. Sau khi thay đồ ngư-phủ và bỏ một bộ quần áo dự-phòng và vài vật-dụng cá-nhân vào một cái túi xách, tôi bỏ túi này vào một cái gùi tre, một loại giỏ có hai quai như một cái ba-lô, để đeo lên lưng rồi lặng-lẽ rời nhà. Vài phút sau, tôi băng ngang quốc-lộ và dãy nhà duy nhất ven đường, rồi đi độ một cây-số theo một con đường mòn quanh-co giữa một cánh đồng rộng lớn để ra bến ghe của xứ đạo. Khi tôi đến nơi thì cha tôi và đứa em trai của Khanh là Bắc đang ngồi đợi trên một chiếc ghe chèo dài độ 5 mét và rộng hơn 1 mét. Bắc mới 15 tuổi nhưng tôi cho đi để sau này em không bị bắt buộc phải đi lính cho Cộng-Sản Việt-Nam.
Từ trên bờ đê nhảy xuống ghe, tôi tháo cái gùi tre trên lưng bỏ xuống lòng ghe, rồi chèo ghe rời bến. Sau hơn một giờ chèo ghe len-lỏi trong rừng sát, chúng tôi đến một hàng cột đáy giăng ngang từ bờ bên trái đến giữa sông. Lưới đáy là một lưới hình chóp rất lớn và dài với một cái miệng khổng-lồ ở phía trước và một cái túi nhỏ ở sau đuôi. Khi lưới đáy được sử-dụng, miệng lưới được giăng giữa hai cây cột và mở rộng từ dưới đáy lên đến mặt nước để hứng bắt tôm cá vào túi đáy khi chúng di chuyển theo dòng chảy của thủy-triều lên xuống. Do đó, các ngư-phủ có thể dựng những cột đáy ở trong sông hoặc ven bờ hải-cảng để giăng lưới đáy.
Trên sông lúc này rất vắng-vẻ. Ngoại trừ một chiếc ghe chèo khác đang di-chuyển gần bờ bên phải phía trước chúng tôi ra, chỉ còn một chiếc ghe nữa được cột ở cột ngoài cùng của hàng cột đáy. Đây là một chiếc ghe ta-xi dài độ 8 mét và rộng độ 2 mét và có ca-bin. Khi ghe chúng tôi đến gần chiếc ghe này, tôi thấy chú Ngọc đang ngồi một mình ở đàng sau ca-bin. Chú giơ tay lên vẫy và nói lớn: - Chào bác! Bác khoẻ không?
Cha tôi trả lời:
- Chào chú. Tôi vẫn khoẻ. Chú và gia-đình thế nào?
- Cám ơn bác. Tất cả chúng tôi đều khoẻ.
Theo tập-quán, cha tôi và chú Ngọc đã tự coi mình như một trong những đứa con của họ để chào hỏi nhau một cách vừa khách-sáo vừa lễ-độ.
Ngay sau khi cập chiếc ghe chèo vào bên cạnh chiếc ghe ta-xi, tôi đưa mái chèo cho cha tôi và nói:
- Ba hãy cẩn-thận trên đường trở về nhé.
- Được rồi. Ba chúc tất cả các con đi bình-an.
- Cám ơn Ba.
Dứt lời, tôi lấy túi xách của mình từ trong gùi tre rồi cùng với Bắc leo lên ghe ta-xi. Trong khi cha tôi chèo ghe trở về, tôi đứng nhìn theo mà lòng đầy thương-cảm cho người. Quả thật, chỉ vì lo cho tương-lai của chúng tôi, đồng-thời không muốn là một gánh nặng cho tôi trong dự-tính vượt-biên, cha tôi đã quyết-định ở lại Việt-Nam.
Sau khi ghe cha tôi đi khỏi, tôi kéo Bắc vào ca-bin và nhận thấy ngoài gia-đình chú Ngọc và một người đàn ông trạc 50 tuổi là chủ ghe, ở đây còn có ba người đàn ông trạc trên 40 tuổi. Chú Ngọc bảo nhỏ tôi là chú đang mang theo toàn bộ dụng-cụ hải-hành mà tôi đã đưa cho chú trước đây, rồi hỏi là tôi có muốn lấy ngay hay không. Tôi trả lời rằng tôi không cần chúng vào lúc này. Trong lúc tôi nói chuyện với chú Ngọc thì ba người đàn ông kia bàn-tán thật sôi-nổi về Liên-Tôn Phục-Quốc và Quân-Dân Phục-Quốc là các tổ-chức đang đấu-tranh nhằm giải-thoát Nam Việt-Nam khỏi ách cộng-sản. Trong khi nói với nhau, mỗi người đều cố ý làm ra vẻ mình rất quan-trọng đến nỗi được tổ-chức phái ra nước ngoài để thực-hiện một vài công-tác bí-mật nào đó. Khôi-hài thay, họ còn giả đò như không muốn, nhưng tôi tin chắc rằng họ thật sự muốn, cho chú Ngọc và tôi nghe những gì họ nói. Do đó, mặc dù không chú ý, tôi vẫn nghe được một người trong bọn họ nói một cách rất trịnh-trọng:
- Các ông nên biết là sau khi được lệnh phải giao lá thơ bằng mọi giá, tôi còn được lệnh phải học thuộc lòng nội-dung của lá thơ để nếu cần thì tiêu-hủy nó đi rồi viết lại sau.
Trước khi mặt trời lặn, chủ ghe ta-xi đãi mọi người một bữa ăn chiều thịnh-soạn với vài món hải-sản tươi ngon. Tuy nhiên, không ai có thể ăn nhiều được vì lo-lắng về cuộc hành-trình sắp tới. Khi trời sụp tối, chủ ghe khởi-động máy, rồi cho ghe chạy dọc theo sông một lát trước khi quẹo trái vào cửa sông phía đông đảo Long-Sơn để ra vịnh Vũng-Tàu. Sau khi ghe ra khỏi cửa sông, chủ ghe dùng đèn pin làm hiệu một hồi, rồi lái ghe ra biển để cập vào một chiếc ghe lớn đang thả trôi cách bờ độ một cây số. Đây là một chiếc ghe đánh cá mới toanh rộng 4 mét rưỡi và dài 20 mét mà tôi đã theo-dõi từ lúc nó bắt đầu được đóng tại bến ghe Bến-Đá, Vũng-Tàu.
Phần đầu của ghe từ mũi đến ca-bin là sân mũi dài 9 mét với hai khoang hầm kế-tiếp nhau ở bên dưới. Mỗi hầm này đều có một ô cửa hình vuông ở trên sân mũi với một nắp đậy để chận không cho nước lọt vào trong hầm.
Phần giữa của ghe tiếp giáp với sân mũi là một ca-bin dài 6 mét, rộng 3 mét, và cao 2 mét. Mái ca-bin này bằng phẳng và được bao quanh bởi một hàng rào bằng gỗ cao độ 30 phân. Bên trong ca-bin gồm có một ca-bin dài 2 mét ở phía trước để lái ghe và một ca-bin dài 4 mét ở phía sau để ngủ. Theo thói quen, các ngư-phủ thường gọi ca-bin để lái ghe là phòng lái và ca-bin để ngủ là ca-bin.
Phòng lái có các cửa sổ phía trước và phần trên của hai cửa ra vào ở bên hông được ghép kính trong suốt nên người lái có thể nhìn ra ngoài một cách dễ-dàng. Ngay bên dưới các cửa sổ là một kệ gỗ rộng hai gang tay được gắn vào vách gỗ suốt từ trái sang phải. Đàng sau kệ gỗ và gần cửa ra vào bên trái là một tay lái thẳng đứng, hình bánh xe nước mía với 8 tay cầm ở chung quanh, được nối với trục bánh lái. Ngay phía sau tay lái là một cái ghế cố-định dành cho người lái ghe. Trên mặt kệ và hơi chếch về bên phải của trục tay lái là một cần số viễn-khiển được nối với hộp số của máy ghe trong hầm máy. Bên phải ghế ngồi của người lái là một khoảng trống ở giữa phòng với một nắp đậy hình vuông ở trên sàn để che ô cửa xuống hầm máy. Cuối cùng là một cái sạp ngủ nhỏ bằng gỗ được gắn vào vách phía trước và gần cửa ra vào bên phải.
Phòng ngủ, hay ca-bin, ở phía sau và ngăn cách với phòng lái bởi một vách ngăn bằng gỗ. Người ta có thể nằm hoặc ngồi nhưng không thể đứng thẳng lên trong ca-bin này được vì sàn của nó cao hơn sàn phòng lái độ nửa mét. Ngoài một cửa nhỏ ở giữa vách ngăn thông với phòng lái và một cửa lớn thông với sân lái, ca-bin này có các cửa sổ bên hông làm bằng những tấm gỗ có thể kéo tới kéo lui để đóng hay mở.
Bên dưới phòng lái và phòng ngủ là hầm máy. Bên trong hầm này có một một giàn máy ba lốc để chạy ghe, một thùng lớn bằng kim-loại để đựng dầu, một máy bơm nước chạy bằng xăng để tát nước khi khẩn-cấp, và một số thùng 20 lít bằng nhựa để đựng xăng, dầu, và nhớt dự-phòng. Ngoài một ô cửa ở bên trong phòng lái, hầm máy còn có một ô cửa khác với một nắp đậy ở trên sân lái ngay phía sau phòng ngủ.
Phần đuôi ghe phía sau ca-bin để ngủ là sân lái dài 5 mét với một khoang hầm thật lớn ở bên dưới. Hầm này cũng có một ô cửa hình vuông có nắp đậy như hai hầm ở sân trước. Trên sân lái gần đuôi ghe là một thùng lớn đựng nước uống bằng kim-loại được gắn chặt xuống sàn ghe. Ở phía trước và bên phải thùng nước là một bếp lò và một đống củi. Cuối cùng, ở đàng sau thùng nước là một số vật-liệu được chuẩn-bị sẵn để làm một cầu tiêu lộ-thiên ở sau lái ghe.
Sau khi ghe đã được hạ-thủy và thử máy, chủ ghe là ông Tá không mua bất cứ một loại dụng-cụ đánh cá nào cả. Theo ông ta thì những thứ đó không cần-thiết vì sau khi được phép đưa chiếc ghe này từ bến ghe Bến-Đá, Vũng-Tàu về một bến ghe gần nhà ông ta ở Cát-Lở, Vũng-Tàu, ông ta sẽ đưa ghe thẳng đến điểm hẹn để đón khách và rời Việt-Nam ngay. Ông ta còn nhấn mạnh rằng nếu bị công-an chận lại sau khi đã đón khách thì chiếc ghe có dụng-cụ đánh cá hay không vẫn bị bắt. Ngoài ra, ông Tá cũng không mua bất cứ một thứ vũ-khí nào để chống hải-tặc vì sợ bị kết tội rất nặng nếu bị bắt.
Được hỏi về kế-koạch chuyển người lên ghe để khởi-hành, ông Tá nói rằng đó sẽ là một cuộc “đánh chui”, tức là không mua bến bãi của công-an, mà chỉ bí-mật chuyển khách lên ghe lớn rồi khởi-hành ngay. Trong mấy năm vừa qua, đánh chui đã trở nên rất thông-dụng vì mọi người đều biết rằng công-an có thể giả-đò bán bến bãi nhằm mục-đích bắt trọn mọi người khách và tịch-thu tất cả kim-cương, vàng, và tiền-bạc của họ.
Theo kế-hoạch này thì ngày N-3, tức là 3 ngày trước ngày khởi-hành N, mọi người khách vượt-biên ở Sài-Gòn, Lâm-Đồng, Long-Khánh, Bà-Rịa, và Vũng-Tàu phải được thông-báo. Ngày N-2, khách gặp ông Tá trong tiệm tạp-hóa của ông ta ở Bà-Rịa để đóng lệ-phí và được ém trong thị-xã. Tối ngày N-1, trong khi ghe lớn trên đường vào điểm hẹn thì khách phải được dẫn từ các nơi ém đến một số địa-điểm bí-mật ven sông Cỏ-May để các ghe taxi đến đón và chở ra ghe lớn. Cuối cùng, ghe phải khởi-hành bất cứ giá nào vào giờ G ngày N.
Suốt mấy tháng nay, giờ khởi-hành đã được định là vào ban đêm và khi thủy-triều đang xuống để ghe có thể nương theo dòng nước chạy nhanh ra biển và rời khỏi Vũng-Tàu trước khi trời sáng. Tuy nhiên, ngày khởi-hành đã được chọn rồi dời lại vài lần vì chiếc ghe không được hoàn-tất như dự-tính. Mãi đến tuần vừa qua, ngày khởi-hành N và giờ G mới được chọn là vào đúng nửa đêm nay.
Do đó, ngay sau khi chúng tôi rời ghe taxi để lên ghe lớn thì chỉ còn khoảng ba giờ đồng-hồ nữa là ghe khởi-hành. Theo kế-hoạch thì vào giờ này, tất cả khách cũng như ghe ta-xi đều phải đang trên đường đến các địa-điểm bí-mật ven sông Cỏ-May. Sau khi bỏ túi hành-trang vào gầm sạp ngủ trong phòng lái, tôi tìm chú Ngọc trong phòng ngủ để lấy bộ dụng-cụ hải-hành. Dùng ống nhòm quan-sát chung quanh, tôi nhận thấy ghe lớn đang ở phía nam và cách đảo Long-Sơn độ một cây-số. Ngoại trừ một số ghe đánh cá đang di chuyển ở phía đông-nam cách ghe vài cây số, chung quanh không có bất cứ một ghe hay tàu nào khác. Xa hơn về hướng nam là vùng trời sáng rực của thị-xã Vũng-Tàu. Cuối tầm nhìn về hướng tây-nam là vùng rộng lớn nhất nhưng rất vắng-vẻ của vịnh Vũng-Tàu. Thật xa về hướng tây, cửa sông Lòng-Tàu đang hoàn-toàn bị bao-phủ bởi một màn sương mù dày đặc.
Yên tâm, tôi đặt chiếc hải-bàn một cách chính-xác phía trước tay lái rồi đóng đinh giữ nó trên mặt kệ gỗ. Những chữ số dạ-quang trên mặt hải-bàn cho tôi biết chiếc ghe đang ở phía bắc Núi Lớn Vũng-Tàu và đang quay mũi về hướng đông-nam. Sau khi kiểm-soát bóng đèn điện trước tay lái để biết chắc là nó có thể được thắp sáng khi cần, tôi yêu-cầu ông Tá và Nam cho ghe chạy vòng quanh một hồi để chỉ cho họ cách giữ hướng đi của ghe bằng hải-bàn. Sau cuộc huấn-luyện cấp-tốc này, chiếc ghe lại được thả trôi tại điểm hẹn để chờ đợi như trước. Tuy nhiên, thay vì tắt máy, Nam để máy chạy liên-tục tại chỗ cho chắc ăn, và cũng để có thể cho ghe trở lại thật nhanh nếu nó trôi quá xa khỏi điểm hẹn.
Trong mấy tiếng đồng hồ sau đó, thỉnh-thoảng lại có một ghe ta-xi cặp vào để chuyển khách hoặc dầu nhớt lên ghe lớn, nhưng chiếc ghe ta-xi được dùng để chở bà con của ông Tá và gia-đình tôi không xuất-hiện. Dù vậy, tôi vẫn nghĩ rằng trước sau gì thì tất cả cũng sẽ được chở ra ghe lớn. Sau 11 giờ đêm thì sóng gió bắt đầu nổi lên. Ông Tá và Nam bàn tính một hồi rồi cho ghe chạy vào thả trôi cách bờ chỉ vài trăm mét để chờ đợi. Cuối cùng, như đã kể ở trên, mãi sau khi chiếc ta-xi của ông Tỵ ra tới và những người khách trên ghe ấy đã được kéo lên ghe lớn, tôi mới biết là vợ con mình và ba thanh-niên đã bị bỏ lại. Ngay khi tôi gọi ông Tỵ để xin quá-giang trở về thì ông Tá ở trong phòng lái cho ghe khởi-hành đồng-thời lớn tiếng bảo Nam và chú Ngọc giữ tôi lại.
Giờ đây, chiếc ghe vượt-biên vẫn tiếp-tục chạy thật nhanh trên biển. Từ cửa sau ca-bin, tôi lặng-lẽ nhìn sâu vào đêm tối. Phía sau ghe, núi Long-Sơn đã biến mất từ bao giờ. Bên tả mạn, vùng cửa biển rộng mênh-mông của vịnh Vũng-Tàu hoàn-toàn vắng-vẻ. Bên hữu mạn, một hàng cột đáy với một túp lều lơ-lửng bên trên mặt nước chợt hiện ra cách ghe độ năm mươi mét, xa dần, rồi mất hút về phía sau. Nhìn vào ca-bin lố-nhố kẻ nằm người ngồi, tôi đột-nhiên sợ hãi. Rồi đây, ngoài việc không có cách nào để trở về, tôi còn có thể bị họ đánh đập, hoặc thậm chí ném xuống biển, nếu không chịu đem chiếc ghe này vượt biển. Hơn nữa, là một cựu sĩ-quan hải-quân của Việt-Nam Cộng-Hòa trở về từ trại tù cải-tạo, tôi lại sợ là mình sẽ bị bỏ tù vô-hạn-định nếu bị bắt khi là một hoa-tiêu của một ghe vượt-biên.
Trong khi tôi đang suy nghĩ thì chiếc ghe chợt khựng lại và Nam hốt-hoảng la lên:
- Trời ơi! Ghe mắc kẹt trên cồn rồi.
Máy ghe sau đó rú lên thật lớn vì Nam cố lùi ghe lại nhưng nó không nhúc-nhích. Trong lúc mọi người trong ca-bin nhốn-nháo thì Hà cứ chui ra chui vào cửa sau ca-bin và lẩm-bẩm:
- Ghe mắc cạn tức là mọi người sẽ bị bắt. Mình phải làm gì bây giờ?
Anh ta tiếp-tục như thế nên em anh ta là Sơn nói:
- Thì cứ dấu nó đi.
- Dấu nó như thế nào?
- Cứ giữ trong người, rồi ném xuống biển nếu công-an đến.
- Rồi mình nói sao với những người bị bỏ lại ở Bà-Rịa?
- Bảo họ là mình đã ném hết xuống biển trước khi bị bắt.
- Thôi đi! Người ta sẽ không bao giờ tin và vẫn cứ đòi mình trả lại.
Cả hai sau đó nín thinh. Theo lời đối-thoại của họ, tôi hiểu rằng Hà đã thâu một số vàng của một nhóm người, nhưng họ bị bỏ rơi lại ở Bà-Rịa nên anh ta đã không đưa cho ông Tá là chủ chiếc ghe vượt-biên.
Sau khi Nam cố lùi ghe vài lần nhưng nó vẫn nằm tại chỗ, tôi chợt lo sợ là mình sẽ bị bắt và bị bỏ tù vô-hạn-định. Do đó, khi ông Tá và chú Ngọc đến yêu-cầu tôi tìm cách đem chiếc ghe ra khỏi bãi cạn, tôi liền đi lên phòng lái. Sau khi nhìn vào hải-bàn và thấy ghe đang quay mũi về hướng tây-nam, tôi dùng ống nhòm quan-sát chung quanh. Trong đêm tối, tôi không thấy bất cứ một ghe hay tàu nào khác trên biển, mà chỉ thấy vùng trời sáng rực của thị-xã Vũng-Tàu đang ở rất xa phía sau lái ghe. Tôi hỏi Nam tại sao ghe đã đi quá xa về hướng tây. Anh ta trả lời rằng vì sợ chiếc ghe đi một mình phía trước Vũng-Tàu rất dễ bị bắt bởi tàu tuần-tiễu của công-an, anh ta đã cố ý lái ghe sang Cần-Giờ để ra khơi cùng với hàng trăm ghe đánh cá ở đây. Sau khi tôi yêu-cầu anh ta cho người kiểm-soát hai bên hông và chân vịt ghe, Nam tắt máy ghe rồi nhảy xuống biển. Khoảng mười phút sau, anh ta trở lại cho tôi biết là nửa thân ghe phía trước đã bị mắc cạn, và chân vịt đã lùi chừng 5 phân khỏi vị-trí ban đầu của nó trên trục láp. Nam cũng nói anh ta đã kiểm-soát khắp chung quanh ghe vài ngày trước đây, nhưng lại không để ý tới con ốc được dùng để khóa chân vịt trên trục láp. Trong một thoáng, tôi chợt nghĩ là một kẻ nào đó đã cố ý làm hại ông Tá và mọi người trong chuyến vượt-biên này.
Với hy-vọng là khi máy tiến thì nước sẽ đẩy chân vịt về vị-trí ban đầu của nó trên trục láp, tôi bảo Nam khởi-động máy và cho tiến tối đa vài giây rồi ngừng để kiểm-soát lại. Tuy nhiên sau khi tắt máy rồi nhảy xuống biển để kiểm lại, Nam cho biết vị-trí của chân vịt không thay đổi gì cả. Tôi hỏi anh ta nếu máy cứ tiếp-tục lùi và chân vịt cũng lùi đến cuối trục láp thì chân vịt có thể rơi ra khỏi trục láp hay không? Nam nói rằng vì bước, hay bề dày, của chân vịt dài hơn khoảng cách giữa đuôi trục láp và trục thẳng đứng của bánh lái nên chân vịt sẽ bị chận lại nửa chừng ở cuối trục của nó bởi trục bánh lái. Điều Nam nói làm tôi mừng thầm.
Giờ đây, thủy-triều đang xuống và mực nước mỗi lúc càng cạn hơn. Nếu không thể lùi ra khỏi bãi cạn kịp thời, ghe sẽ phải đợi đến sáng mai, cho thuỷ-triều xuống hẳn rồi lên lại và có mực nước cao hơn bây giờ, thì mới có thể lùi ra được. Do đó, mặc dù nghĩ rằng nếu chân vịt lùi đến cuối trục láp, nó có thể làm cong trục bánh lái, rồi rơi ra, và chiếc ghe sẽ không thể chạy được nữa, tôi vẫn quyết-định liều. Sau khi bảo Nam khởi-động máy và yêu-cầu khách trong hai khoang hầm phía trước ca-bin lên khỏi hầm ra ngồi trên sân lái, tôi kéo cần số hết về phía sau. Ngay khi máy ghe rú lên, chiếc ghe rung lên bần-bật rồi lùi nhanh ra khỏi bãi cạn. Một lát sau, tôi nâng cần số lên đẩy nhẹ về phía trước cho ghe tiến tới, rồi lái trở lại Vũng-Tàu.
Trong khi những người khách trên sân lái trở lại hầm của họ, tôi nhấn cần số hết về phía trước để tăng máy tối-đa. Chiếc ghe tăng vận-tốc thật nhanh rồi chạy hết tốc-độ mà không rung gì cả, cứ như là chân vịt đã trở về đúng vị-trí ban-đầu của nó trên trục láp.
- Từ giờ phút này, ghe chỉ có thể đi tới mà thôi.
Tôi bảo Nam rồi giao tay lái cho anh ta để sử-dụng ống nhòm quan-sát chung quanh. Lúc này, trên khắp vùng cửa biển từ Vũng-Tàu đến Cần-Giờ, ngoài ghe chúng tôi ra chỉ có vài chiếc tàu buôn đã thả neo ở gần bãi trước Vũng-Tàu. Khi ghe còn cách những chiếc tàu neo độ nửa cây số, tôi bảo Nam cho ghe quay mũi về hướng 180 độ hải-bàn để ra biển. Mặc dù chiếc ghe vượt biên tiếp-tục chạy với vận-tốc tối-đa, tôi vẫn nghĩ là nó quá chậm-chạp vì sợ rằng một chiếc tàu tuần-tiễu nào đó có thể đang núp ở phía sau những chiếc tàu neo.
Sau khi chiếc ghe đã vượt qua bãi trước và hải-đăng Vũng-Tàu mà không gặp trở-ngại gì cả, tôi ước-tính độ giạt của ghe, rồi bảo Nam đổi hướng lái từ 180 sang 130 độ hải-bàn để ra khơi. Mặc dù với hướng đi này, chiếc ghe lắc-lư liên-tục, và mọi người trong ca-bin phải nằm xuống vì say sóng, tôi vẫn không đổi ý vì cho rằng đây là hướng tốt nhất để chiếc ghe vượt thoát từ Vũng-Tàu.
Khi trời sáng thì núi Vũng-Tàu đã chìm một phần xuống biển ở phía sau lái, và chiếc ghe vượt-biên vẫn chạy với vận tốc tối-đa để rời xa vùng nguy-hiểm. Trên biển, sương mù đã tan nhưng trời không có nắng vì hoàn-toàn bị bao-phủ bởi một làn mây dày đặc. Tuy nhiên, sóng gió từ hướng đông-bắc đã giảm rất nhiều nên chiếc ghe không còn lắc-lư như trước. Sử dụng ống nhòm quan-sát chung quanh, tôi nhận ra chiếc ghe vượt-biên đang hải-hành đơn-độc và không hề bị rượt đuổi. Ngay sau khi hạ ống nhòm xuống, tôi ngạc-nhiên thấy Bắc đang đứng bên cạnh. “Trời! Thằng em họ trẻ tuổi này đã theo sát mình từ hôm qua đến giờ mà mình quên bẵng đi mất!” Tôi vừa nhủ thầm vừa vỗ nhẹ vai Bắc rồi bảo em đi nghỉ. Em hớn-hở cười với tôi rồi lui vào phòng ngủ.
Vài giờ sau, chiếc ghe vượt-biên đối-diện với một khu-vực dầy đặc ghe đánh cá. Khu-vực này trải rộng đến tận chân trời từ trái sang phải và phía trước nên chúng tôi không thể tránh mà phải bảo những người trong phòng ngủ nằm xuống và đóng cửa sau và cửa sổ hai bên lại, rồi cho ghe giảm vận-tốc để đi qua. Từ trong phòng lái dùng ống nhòm quan-sát thật cẩn-thận rừng ghe-cộ chung quanh, tôi mừng thầm vì không thấy một tàu biên-phòng nào cả. Tuy nhiên, tôi vẫn quan-sát liên-tục và thỉnh-thoảng lại bàn với Nam để tránh những ghe nào chúng tôi nghi-ngờ là của công-an biên-phòng.
Sau hơn một giờ đồng hồ len-lỏi, ghe chúng tôi đã vượt qua khu-vực đánh cá mà không gặp điều gì bất-trắc. Trước sau, các ngư-phủ trên những ghe đánh cá chúng tôi đi gần đều thản-nhiên với công việc của họ. Giờ đây, chung quanh chỉ còn rải-rác một số rất ít ghe đánh cá, nhưng chúng tôi vẫn chưa dám tăng máy vì sợ bị nghi-ngờ và săn-đuổi. Trong khi ghe chúng tôi đang ung-dung tiến tới thì từ hướng 2 giờ và cách độ 100 mét, một chiếc ghe đánh cá dài độ 10 mét chợt phun khói mù-mịt và chạy hết tốc-lực để chận đường chúng tôi. Trên ghe ấy, ngoài một người đàn ông ngồi ở phía sau để lái ghe, hai người đàn ông khác đứng trước ca-bin đang giơ mũ lên ngoắc chúng tôi rối-rít.
Hơn bảy năm trước, khi tôi còn phục-vụ trên Tuần-Dương-Hạm Ngô-Quyền HQ-17, một trong những chiến-hạm lớn nhất của Việt-Nam Cộng-Hòa, mỗi khi thấy một ngư-phủ đứng trên ghe vẫy nón là tôi biết chắc con tàu sắp vượt qua một giàn lưới đang giăng ngang phía trước. Do đó, tôi chỉ cần quan-sát thật kỹ rồi cho tàu ngưng máy ngay khi mũi tàu vừa tới hàng phao của giàn lưới để tàu sẵn trớn vượt qua mà không cuốn lưới vào chân vịt. Khi hàng phao đã nổi lên ở phía sau tàu, tôi lại cho tăng máy để tiếp-tục cuộc hải-hành.
Do đó, khi thấy hai người trên chiếc ghe kia vẫy mũ liên-tục, tôi chỉ cho Nam thấy, rồi dùng ống nhòm quan-sát phía trước ghe vượt biên để đề-phòng lưới của họ bị cuốn vào chân vịt. Tôi đang lấy làm lạ vì không thấy phao hay lưới gì cả thì Nam nói:
- Họ đoán là ghe mình vượt-biên nên muốn xin quá-giang.
- Thật à?
- Đúng vậy. Một số người thường đem theo một số vàng trong người và giả làm ngư-phủ với hy-vọng gặp được một ghe vượt biên trên biển để xin trả lệ phí và đi theo cho chắc ăn. Những ghe họ sử-dụng luôn-luôn đánh cá ở ngoài cùng của khu-vực đánh cá như chiếc ghe này.
- Họ là những loại người nào?
- Họ là những người Nhà-nước đang truy-nã, bao gồm các cựu sĩ-quan của Việt-Nam Cộng-Hòa không đi cải-tạo hoặc đã đi nhưng lại trốn khỏi các trại cải-tạo, và những người có liên-hệ với một vài tổ-chức Phục-Quốc nào đó.
- Bây giờ mình có cho những người này đi với mình không?
- Không!
- Tại sao vậy?
- Vì mình không thể chắc được! Biết đâu họ không là công-an biên-phòng hoặc hải-tặc có vũ-khí?
Nói xong, Nam đưa tay nhấn cần số hết về phía trước. Chiếc ghe vượt-biên tức thì tăng tốc-độ chạy thật nhanh, rồi vượt qua cách mũi chiếc ghe kia chỉ độ 30 mét. Dù biết rằng nỗi lo của Nam rất chính-đáng, nhưng khi thấy hai người đàn ông trên ghe kia vừa la vừa vẫy nón một cách vô-vọng rồi đứng lặng nhìn theo ghe chúng tôi một cách ngẩn-ngơ, tôi vẫn cảm thấy tội-nghiệp cho họ.
Khi chiếc ghe đánh cá kia đã biến mất và đỉnh núi Vũng-Tàu đã mờ đi ở đường chân trời sau lái, tôi lại dùng ống nhòm quan-sát chung quanh và không thấy bất cứ ghe hay tàu nào khác trên biển. Yên tâm là chiếc ghe vượt biên không hề bị công-an biên-phòng rượt đuổi, tôi bảo Nam cho giảm máy để chạy đường trường, tức là chỉ sử-dụng ba phần tư vận-tốc tối-đa của máy để ghe có thể chạy liên-tục và lâu dài. Lúc này, trời không mưa không nắng và biển vẫn êm nên các cửa sổ phòng ngủ và các nắp hầm chứa khách đều được mở hẳn ra cho thoáng khí. Một lát sau, khi nhóm đầu bếp bắt đầu làm việc và một số khách từ dưới hầm lên ngồi trên sàn ghe để hóng gió thì chiếc ghe lộ rõ là một ghe vượt biên.
Sau khi bảo Nam tiếp-tục giữ hướng lái 130 độ, tôi bước ra khỏi phòng lái và thình-lình nghe tiếng của ông Tá từ bên trong phòng ngủ:
- Tôi rất sung-sướng là đã đem đi gần hết bà con của mình.
Tiếng một người nào đó khen:
- Bác tài thật!
Tiếng Nam lớn tiếng bảo ông ta:
- Vợ con con còn ở nhà mà Bố!
- Bố đã bảo mày rồi. Nếu mình bị bắt thì vợ mày sẽ thăm nuôi và dùng vàng của bố để chạy-chọt cho mình được thả. Bây giờ mình đã thành-công rồi nên vợ con mày dư sức để vượt-biên.
- Không đâu! Con đã dặn vợ con là cứ đợi để con bảo-lãnh đi Mỹ. Con nhất định sẽ đi Mỹ.
- Thì Bố cũng thế! Bố sẽ chỉ đi Mỹ mà thôi.
Tiếng Hà chợt xen vào:
- Cháu nữa! Cháu cũng sẽ đi Mỹ bằng mọi cách.
Bực mình vì những lời đối-thoại của họ, tôi lặng-lẽ đi ra sân lái rồi leo lên ngồi trên nóc ca-bin. Trời lúc này không mưa nhưng vẫn đầy mây xám. Đưa mắt nhìn xa về phía sau lái ghe, tôi thấy đỉnh núi Vũng-Tàu sắp sửa lặn mất ở đường chân trời. Vợ con tôi đã bị bỏ rơi lại ở phía sau ngọn núi kia. Hai mẹ con đã về nhà hay đã bị công-an bắt? Dù sao đi nữa thì vợ tôi cũng đang lo-lắng lắm, và con gái tôi thì đang ngơ-ngác vì sự vắng mặt của tôi. Hình ảnh con gái tôi mới hai tuổi hớn-hở chạy đến khi tôi chuẩn-bị đi đánh chài hiện ra rõ mồn-một trong đầu tôi. Cô bé con xinh-xắn đưa hai bàn tay nhỏ xíu lên và nói: “Con cài cúc áo cho Ba để Ba đi chài bắt tôm nướng ăn.” Thật vậy, mỗi khi tôi từ ngoài sông về, vợ tôi thường lựa một con tôm lớn để nướng cho cô bé ăn. “Đan-Tâm, con gái yêu-quý của Ba ơi. Con và mẹ con hiện giờ ra sao?” Tôi thầm thì, rồi lại nhìn về đường chân trời sau lái. Đỉnh núi Vũng-Tàu đã hoàn-toàn biến mất khiến tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống và ứa nước mắt vì mình không còn cách nào gặp lại vợ con được nữa.
Trong khi tôi đang suy-nghĩ thì có ai đó vỗ nhẹ vào vai. Tôi quay lại và thấy Bắc ngồi bên cạnh. Em vừa đem một ít thức ăn và nước uống do nhóm đầu-bếp cung-cấp lên đây để cùng ăn với tôi. Sau bữa ăn, tôi tiếp-tục ngồi một mình trên nóc ca-bin nhìn về đường chân trời mịt-mùng phía sau lái. Hình ảnh vợ con bị bỏ rơi ở Bà-Rịa lại hiện ra trong đầu làm tôi càng lúc càng buồn-rầu chán-nản hơn. Cuối cùng, để tạm quên đi cảm-giác này, tôi leo xuống đi vào phòng lái, rồi bảo Nam giao tay lái cho tôi. Từ lúc này trở đi, Nam và tôi thay phiên nhau lái ghe.
Sau khi mặt trời lặn, trời bắt đầu mưa rải-rác và biển bắt đầu động khiến những người khách đang ở trên sân mũi và sân lái phải chui hết xuống hầm. Chẳng bao lâu sau thì mưa rơi nặng hạt và sóng gió thình-lình đổi chiều 180 độ từ đông bắc thành tây nam nên tôi phải tính lại độ giạt rồi bảo Nam cho ghe đổi hướng từ 130 sang 150 độ để tiếp-tục cuộc hành-trình. Từ bây giờ, chiếc ghe bắt đầu trồi lên hụp xuống và lắc-lư liên-tục vì sóng gió. Trong khi Nam và tôi thay phiên nhau lái ghe thì mọi người trong phòng ngủ sau lưng chúng tôi đều nằm liệt vì say sóng.
Sáng hôm sau, trong khi chiếc ghe tiếp-tục hải-hành đơn-độc dưới trời giông bão, tôi cho ghe đổi hướng đi từ 150 sang 215 độ hải-bàn để đi Tân-Gia-Ba. Với hướng đi này, chiếc ghe sẽ đi ở phía đông và bên ngoài khu-vực tuần-tiễu quanh đảo Côn-Sơn của hải-quân Cộng-Sản Việt-Nam. Hơn nữa, cũng với hướng đi này, hải-đạo của ghe sẽ ở xa vùng đánh cá của Thái-Lan cũng như tầm hoạt-động của hải-tặc Thái-Lan. Tuy nhiên, chiếc ghe từ lúc này chạy ngược sóng nên cứ trồi lên hụp xuống và làm cho nước biển văng lên tung-tóe khắp nơi.
Khoảng 9 giờ sáng, một chiếc tàu chợt xuất-hiện ở đường chân trời phía trước. Sau khi được thông-báo, mọi người trên ghe đều rất sung-sướng và phấn-khởi. Trong mấy năm qua, ai cũng biết rằng những người vượt-biên thường được các tàu ngoại-quốc cứu-vớt trên biển rồi chở đến các trại tị-nạn. Mới đây, nhiều người còn cả-quyết rằng tổng-thống Hoa-Kỳ đã ra lệnh cho Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ ở Thái-Bình-Dương đón người vượt-biên từ Việt-Nam. Được tàu vớt tức là hoàn-toàn thoát khỏi chế-độ độc-tài tàn-ác của Cộng-Sản Việt-Nam. Được tàu vớt cũng có nghĩa là sẽ được sống xứng-đáng là một con người trong một nước tự-do. Do đó, bất kể bão-tố, một số người khách vẫn lên khỏi hầm để nhìn tận mắt chiếc tàu chuyên-chở niềm hy-vọng duy-nhất và vô-cùng quan-trọng của họ.
Sau một hồi bàn tính, chúng tôi đặt trên sân mũi ghe một cái chậu thau bằng nhôm, bỏ một cái áo cũ và đổ một ít dầu cặn vào, rồi đốt lửa lên cầu-cứu. Khi chiếc tàu chỉ còn cách ghe độ nửa cây số, Nam lái ghe về bên trái một chút để đến gần nó hơn. Tôi dùng ống nhòm quan-sát, nhưng mưa bão mịt-mù làm tôi không thể nhận ra quốc-tịch của nó. Chiếc tàu càng đến gần thì mọi người trên ghe càng mừng-rỡ. Tuy nhiên, thay vì ngừng lại, chiếc tàu thản-nhiên đi qua cách tả mạn ghe độ 200 mét rồi mất dạng trong mưa bão. Một lát sau, trong khi những người khách trên sàn ghe buồn-bã trở xuống hầm, Nam cho ghe trở lại hướng đi cũ để tiếp-tục cuộc hải-hành.
Độ nửa giờ sau, trong lúc cơn bão vẫn hoành-hành thì một chiếc tàu khác cũng xuất-hiện ở đường chân trời phía trước. Khách lại được thông-báo, và một số người trong bọn họ lại ra khỏi hầm. Một ít dầu cặn được đổ thêm vào cái chậu nhôm, rồi lửa lại được đốt lên để cầu-cứu. Khi chiếc tàu đến gần hơn, mọi người trên sân mũi ghe hớn-hở la lên và vẫy tay liên-tục. Nhưng giống như chiếc tàu trước, tàu này cũng lặng-lẽ đi qua rồi mất hút. Trong khi những người khách ở bên ngoài trở xuống hầm thì một người trong bọn họ lớn tiếng nguyền-rủa chiếc tàu này là bất-nhân. Cùng lúc ấy ở trong phòng ngủ, mọi người đều lớn tiếng cầu kinh.
Vào khoảng giữa trưa, chúng tôi phát hiện ở phía sau ghe một chiếc tàu đang đi cùng chiều với chúng tôi. Sau khi đốt lửa và giảm vận-tốc ghe để đợi, chúng tôi thông báo cho khách nên một số người trong bọn họ lại lên khỏi hầm. Không bao lâu sau, chiếc tàu vượt qua ở bên trái ghe gần đến nỗi mọi người đều có thể thấy được lá cờ ba màu đỏ trắng xanh trên tàu. Chiếc tàu chợt chậm lại rồi ngừng ở khoảng cách độ 300 mét phía trước ghe chúng tôi. Trên sân mũi ghe, một người nào đó reo lên mừng-rỡ:
- Bà con ơi! Tàu này đã ngừng lại để đợi mình.
Một người khác hỏi:
- Có phải tàu của Mỹ không?
- Không! Không phải của Mỹ mà là của Pháp.
Ngay lúc này, Nam nhấn cần số hết về phía trước rồi lái ghe thẳng về phía tàu Pháp. Trong lúc ghe mỗi lúc một đến gần chiếc tàu hơn thì ông Tá và thân-quyến ở trong ca-bin phòng ngủ bắt đầu bàn-tán. Một người nào đó nói lớn:
- Pháp cũng được.
Một người khác nói:
- Sau khi vào trại tị-nạn, tôi sẽ xin đi Mỹ.
Một người nữa thêm:
- Đối với tôi thì Mỹ, Pháp, và Úc đều được cả.
Trong lúc đó, tôi phân-vân không biết mình nên đi hay trở về. Nếu tôi lên tàu, vào trại tỵ-nạn, rồi định-cư ở nước ngoài thì không biết đến bao giờ tôi mới có thể gặp lại vợ con? Tại sao mình không đợi cho mọi người lên tàu rồi lái ghe trở về? Tôi tự hỏi, rồi phác-họa một kế-hoạch trong đầu. Tôi sẽ cho ghe vào vịnh Vũng-Tàu vào ban đêm, rồi theo cửa sông phía đông đảo Long-Sơn để về bến ghe giáo-xứ chúng tôi. Nhưng điều này rất nguy-hiểm vì nếu một người nào đó ở bến ghe thấy tôi và báo cho công-an thì tôi sẽ bị bắt bỏ tù và không còn có thể vượt-biên cùng với vợ con được nữa. Do đó, tôi chỉ có thể rời ghe ở một nơi nào đó trên sông, rồi băng rừng sát để về nhà. Nhưng tôi có đủ sức để một mình lái ghe trở về Vũng-Tàu không, và chuyện gì sẽ xảy ra nếu máy ghe thình-lình bị hư-hỏng trên đường trở về? Cuối cùng, tôi không thể quyết-định được là mình sẽ đi cùng với mọi người hay trở về một mình. Tuy nhiên, trong thâm tâm, tôi vẫn cầu mong rằng định-mệnh sẽ đưa tôi trở về với vợ con tôi.
Nhưng tất cả mọi người trên ghe kể cả tôi đều đã lầm. Khi ghe chúng tôi chỉ cách chiếc tàu độ một trăm mét, và những người khách trên sân mũi ghe la hét và vẫy tay rối-rít thì chiếc tàu bỏ chạy về phía trước rồi mất dạng trong giông-bão. Một lần nữa, những người khách lại buồn-bã trở về hầm của họ, và chiếc ghe lại trở lại vận-tốc và hướng đi cũ để tiếp-tục cuộc hành-trình.
Sau đó, cơn bão vẫn tiếp-tục, và khắp chung-quanh trên biển không có bất cứ một ghe hay tàu nào khác. Nếu biển cứ động mãi như thế này thì dù có chạy liên-tục mười ngày nữa, chiếc ghe vẫn không tới Tân-Gia-Ba, nhưng tất cả dầu, thức ăn, và nước uống đều sẽ hết. Mọi người trên ghe sẽ bị đói khát, và ghe sẽ trôi bồng-bềnh trên biển rồi bị nhận chìm bởi bão-tố. Tôi đang suy nghĩ thì có tiếng ồn-ào ở bên ngoài cửa bên phải phòng lái, rồi Hà, Sơn, và vài người đàn ông khác sấn-sổ xông vào. Thái-độ ngổ-ngáo của họ khiến tôi linh-cảm một điều chẳng lành.
Sau khi nhìn quanh và thấy Nam đang lái ghe, Hà trịch-thượng hỏi:
- Ghe đang đi hướng nào vậy, anh Nam?
- Hướng 215.
- Sao lại là 215?
Thay vì trả lời, Nam lặng-lẽ quay nhìn tôi. Tôi nhẹ lắc đầu không nói. Hà cùng đồng bọn do-dự một lát rồi kéo nhau vào phòng ngủ. Ngay sau đó, một người nào đó lớn tiếng nói:
- Bác Tá! Bác muốn chết hay sao mà để ghe đi hướng 215?
Ông Tá hỏi lại:
- Không hướng này thì hướng nào?
- Hướng 240.
- Ai nói thế?
- Một người bạn tôi ở trong trại tị-nạn nói thế. Tôi đọc thơ của nó cho bác nghe. Sau hơn một tuần lênh-đênh trên biển, ghe tụi tao đã tới Thái-Lan và mọi người được đưa vào trại tị-nạn Song-La. Theo tao biết thì ghe này đã đi hướng 240 độ để đến đây. Bác đã thấy chưa? Ghe đó cũng đã khởi-hành từ Vũng-Tàu như ghe này.
Sau khi tranh-cãi một hồi với Hà và đồng bọn, ông Tá dẫn họ vào phòng lái và bảo Nam đổi hướng lái của ghe sang 240 độ.
“Như vậy là chiếc ghe với trên một trăm hành-khách này đã bị cướp, và theo luật hàng-hải quốc-tế thì những tên hải-tặc này đáng bị treo cổ.” Tôi nhủ thầm mà không hề nghĩ rằng ghe này đã vượt biên bất hợp-pháp khỏi Việt-Nam nên không còn được bảo-vệ bởi Việt-Nam, chứ đừng nói là một nước nào khác trên thế-giới. Trong mấy năm vừa qua, tôi đã từng nghe có một vài cá-nhân tự nhận là cựu sĩ-quan hải-quân của Việt-Nam Cộng-Hòa để làm tài-công cho ghe vượt-biên, nhưng sau khi ghe ra biển thì họ không biết phải cho ghe đi hướng nào. Tôi cũng đã nghe nói một số ghe vượt-biên không hề có tài-công vì chủ ghe hoặc người tổ-chức tin rằng các ghe vượt-biên chỉ cần chạy ra khơi cho đến khi bờ biển phía sau lái biến mất là được tàu ngoại-quốc đón. Hơn nửa năm trước đây, một chiếc ghe vượt-biên, chở độ một trăm người và khởi-hành từ bến ghe giáo-xứ chúng tôi, đã hoàn-toàn bặt-vô-âm-tín, nên mọi người trong giáo-xứ đều nghĩ rằng nếu không bị lạc giữa đại-dương thì nó cũng đã bị đánh chìm bởi bão-tố hoặc húc nát bởi ghe hải-tặc Thái-Lan trên biển.
Giờ đây, tôi không chỉ nghe nói mà gặp tận mặt một nhóm người định cho ghe đi theo một hướng đi được nhắc đến trong một lá thơ từ trại tị-nạn, mà không biết là ghe đang ở đâu. Do đó, sau khi cho ông Tá biết rằng ghe đi hướng 240 sẽ lọt vào vùng kiểm-soát quanh đảo Côn-Sơn của hải-quân Cộng-Sản Việt-Nam, tôi bảo ông ta yêu cầu Hà và đồng bọn tự lái ghe lấy. Sau khi nói với ông Tá, tôi lại chợt lo là ghe sẽ đi lạc nên quay sang Nam và dặn rằng mỗi khi ghe đổi hướng, anh ta phải ghi hướng mới và ngày giờ đổi sang hướng ấy.
Dặn-dò Nam xong, tôi lặng-lẽ ra khỏi phòng lái, tìm một chỗ trống gần cửa sau ca-bin phòng ngủ, rồi ngồi dựa lưng vào vách gỗ để nghỉ-ngơi. Kể từ giờ này, tôi không còn phải lo-lắng cho chiếc ghe vượt-biên này nữa. Hà và đồng bọn chiếm quyền chỉ-huy mà chủ ghe là ông Tá và con rể ông ta là Nam không chống lại thì tôi chẳng dại mà phản-đối để chuốc họa vào thân. Rồi đây, nếu tôi bị bắt bỏ tù hoặc chết mất xác trên biển thì cũng là do số-phận của tôi mà thôi. “Nhưng vợ con mình đang đợi mình trở về. Mình không thể chết được.” Tôi tự nhủ như thế trước khi ngủ thiếp đi vì mệt-mỏi.
Tiếng ai đó gọi tên tôi khiến tôi chợt tỉnh và nghe có tiếng rầm-rì cầu kinh xen lẫn với những âm-thanh ầm-ì hỗn-độn của mưa gió và sóng biển. Tôi nhìn lên và thấy chú Ngọc đang ngồi trước mặt và ông Tá đang đứng khom lưng bên cạnh. Tôi ngạc-nhiên hỏi:
- Có chuyện gì vậy chú Ngọc?
- Chủ ghe muốn nói chuyện với anh.
Tôi quay qua ông Tá:
- Có chuyện gì vậy bác Tá?
Ông Tá nhìn tôi và nói:
- Tệ quá! Ghe đã chạy gần năm tiếng đồng hồ mà chẳng gặp một chiếc tàu nào cả. Ông ngập-ngừng một lát rồi lắc đầu buồn-bã:
- Mọi người đều đang sợ là ghe sẽ chìm.
Từ cửa sau ca-bin nhìn ra ngoài, tôi nhận thấy trời đã gần tối, mưa không lớn lắm, nhưng biển cả gầm thét dữ-dội như muốn nuốt trửng chiếc ghe vượt-biên. Những đợt sóng cao như mái nhà cứ liên-tiếp nâng chiếc ghe lên rồi ném xuống làm cho nước biển văng lên tung-toé rồi phủ xuống khắp nơi trên ghe. Hơn nữa, mỗi lần chiếc ghe trồi lên ngọn sóng, nghiêng về một bên, rồi chúi mũi xuống thật nhanh như muốn chui vào chân sóng, thân chiếc ghe rung-chuyển và kêu răng-rắc như sắp vỡ ra từng mảnh. “May là thân ghe mới toanh và máy ghe rất tốt.” Tôi nhủ thầm, rồi hỏi ông Tá:
- Bây giờ bác tính sao?
- Mọi người trên ghe đã đòi tôi cho ghe trở về Việt-Nam. Mình có thể về được không?
Thay vì trả lời câu hỏi, tôi bảo ông ta:
- Về được hay không là chuyện sau. Điều cần ngay bây giờ là giữ cho ghe khỏi bị chìm.
- Chính vì vậy mà chúng tôi phải đánh thức ông dậy. Xin ông hãy trở lên phòng lái.
- Được rồi.
Dứt lời, tôi đi nhanh vào phòng lái. Thấy chỉ có một mình Nam ở bên trong để lái ghe, tôi ngạc-nhiên hỏi:
- Hà và đồng bọn của hắn đâu?
Nam nhẹ lắc đầu:
- Hừm! Tụi nó đã trốn hết vì say sóng.
- Thật vậy à?
Nam không trả lời mà chăm-chú nhìn hải-bàn để lái ghe.
Không chần-chờ, tôi bảo Nam quay tay lái về bên trái để đổi hướng lái của ghe từ 240 sang 090 độ. Sau khi đổi hướng, chiếc ghe không còn bị sóng đập nữa. Để giữ cho ghe không đi quá xa về hướng đông, tôi bảo Nam cho ghe chạy với một phần ba vận-tốc máy mà thôi. Sau đó, tôi hỏi Nam về những hướng mà ghe đã đi trong suốt thời gian tôi không có mặt ở trong phòng lái. Anh ta trả lời là ghe đã chỉ đi theo hướng 240 độ mà thôi. Yên tâm, tôi mở hải-đồ ra chấm một vị-trí phỏng-định cho chiếc ghe rồi bảo Nam đi nghỉ. Sau khi giao tay lái cho tôi, anh ta cầm đèn pin chui xuống hầm máy một lát rồi mới trở lên nằm trên sạp để ngủ. Nam là một ngư-phủ khoẻ-mạnh, tháo-vát, và chịu khó. Từ lúc ghe khởi-hành đến giờ, anh ta hầu như đã làm việc liên-tục. Ngoài việc lái ghe và chăm-sóc máy, Nam thường đi vòng quanh để kiểm lại các vật-dụng trên ghe hoặc giúp nhóm nhà bếp phân-phát cơm nước cho khách. Dù vất-vả như thế, anh ta chẳng có vẻ gì là mỏi-mệt hoặc say sóng.
Vài giờ sau, cơn bão vẫn không giảm. Nếu cứ tiếp-tục đi như thế này, chiếc ghe sẽ đi vào vùng quần-đảo Trường-Sa, rồi bị bắt bởi một tàu tuần-dương của Cộng-Sản Việt-Nam, hoặc bị vỡ nát vì đụng phải những bãi san-hô nằm sát mặt biển. Thêm vào đó, ghe càng đi về hướng đông thì cả hai hải-đạo đi Tân-Gia-Ba và trở về Việt-Nam càng xa hơn, và ghe càng cần nhiều dầu hơn để tiếp-tục đi hay trở về. Do đó khi Nam thức giấc, tôi hỏi anh ta về tình-trạng dầu trên ghe và được biết là một ghe taxi chở dầu đã bị lạc. Tôi liền yêu-cầu anh ta đo mức dầu trong thùng để biết số lượng dầu còn lại. Sau khi đo xong, Nam cho tôi biết là số lượng dầu lúc này chỉ bằng nửa số lượng dầu ghe đã có vào lúc khởi-hành ở Vũng-Tàu. Tôi lo-lắng hỏi:
- Anh có tính những can dầu dự-trữ không?
- Có! Tất cả dầu dự-trữ đã được đổ vào thùng trước khi ghe khởi-hành.
- Từ lúc khởi-hành đến giờ mới có hai ngày hai đêm. Như vậy, ghe chỉ có thể chạy thêm 48 giờ nữa mà thôi. Chúng ta phải bàn với chủ ghe xem phải làm gì.
Sau khi Nam mời ông Tá vào phòng lái, tôi nói với ông ta rằng cho dù cơn bão có chấm dứt và biển êm trở lại ngay bây giờ, chiếc ghe vượt-biên cũng không thể đi tới Tân-Gia-Ba được vì thiếu dầu. Hơn nữa, sau 48 giờ nữa thì máy ghe sẽ tắt, và ghe sẽ trôi trên biển rồi bị sóng nhận chìm. Tôi nhấn mạnh rằng đây là lỗi của chủ ghe nên tôi không chịu trách-nhiệm nếu ghe chìm hoặc ai đó chết vì đói khát. Tôi cũng nói rằng dù ghe quay về ngay bây giờ thì tôi vẫn chưa chắc là nó có thể về tới Vũng-Tàu hay không vì thiếu dầu. Cuối cùng, tôi hỏi ông ta nếu cơn bão giảm thì ghe sẽ tiếp-tục vượt-biên hay trở về. Ông Tá trả lời rằng ông ta và tất cả khách trên ghe đều muốn về lại Vũng-Tàu. Tôi bảo ông rằng ngay bây giờ thì chưa được, nhưng khi nào thấy có thể được thì tôi sẽ cho ghe quay về, rồi yêu-cầu ông ta và Nam giữ kín về tình-trạng thiếu dầu để mọi người khách khỏi bị hoang-mang.
Sau nửa đêm, cơn bão giảm cường-độ. Tôi giao tay lái cho Nam rồi mở hải-đồ chấm một vị-trí phỏng-định cho chiếc ghe, kẻ một đường thẳng từ điểm này tới vị-trí của hải-đăng Vũng-Tàu, ước-lượng độ giạt, rồi bảo Nam cho ghe quay mũi về hướng 310 độ hải-bàn để trở về Vũng-Tàu. Mặc dù với hướng đi này, chiếc ghe chạy sóng ngang, tôi không đổi ý vì sợ thiếu dầu. Chiếc ghe đã ra đi từ hai ngày trước, giờ đây vì bão-tố, nó cần phải có hơn hai ngày để trở về nơi khởi-hành. Dùng ống nhòm quan-sát khắp vùng biển trời mênh-mông và mù-mịt chung quanh, tôi không thấy bất cứ một ghe hay tàu nào khác.
Tôi vừa hạ ống nhòm xuống thì Nam nói:
- Tôi không ngờ là mình phải trở về.
- Tôi đã bảo anh và ông Tá là mình phải đi sớm hơn để tránh bão.
- Tìm được một máy tốt rất khó nên chúng tôi đã không thể hoàn-tất chiếc ghe sớm hơn.
- Tôi đồng ý là máy ghe này tốt thật. Nó đã chạy liên-tục mấy ngày mà không trục-trặc gì cả.
Nam hãnh-diện nói:
- Chúng tôi đã phải ra tận Phan-Thiết để mua nó.
Anh ta ngừng một lát rồi hỏi:
- Khoảng bao lâu thì mình về tới Vũng-Tàu?
- Hơn hai ngày, nhưng tôi không biết là ghe có còn đủ dầu hay không.
Sau câu nói của tôi, Nam nín thinh một hồi rồi bảo tôi:
- Tôi nghĩ anh nên đi ngủ để lấy lại sức.
- Phải đấy! Tôi sẽ ngủ một lát rồi dậy thay thế cho anh.
Dứt lời, tôi dùng ống nhòm quan-sát chung quanh một lần nữa rồi lên sạp nằm. Trước khi ngủ thiếp đi, tôi tự hỏi không biết tại sao chiếc ghe này không được các tàu ngoại-quốc cứu vớt, rồi thầm tạ ơn Trời là đã đưa tôi trở về.
Không biết bao lâu sau, tôi chợt thấy mình đang ngồi đọc sách trong phòng ngủ của mình trên chiến-hạm HQ-17. Đưa tay nhìn đồng hồ và nhận ra đã đến giờ đi ca, tôi chụp vội cái nón đi biển lên đầu rồi rời phòng đi lên đài chỉ-huy. Sau khi vào phòng lái để thay thế một sĩ-quan cùng khoá Đệ-Nhị Hổ-Cáp, còn được gọi là Khóa 20 Sĩ-Quan Hải-Quân Nha-Trang, tôi nhìn vào hải-đồ trên bàn hải-hành gần cửa ra vào bên trái và nhận ra là chiến-hạm đang trên đường từ quần-đảo Trường-Sa về Vũng-Tàu. Bên ngoài, trời mưa to gió lớn và biển động mạnh. Trong phòng lái, ngoài Thủy-thủ Vận-chuyển Ân đang đứng giữ tay lái ở giữa phòng và Thượng-sĩ Giám-lộ Du đang nhìn vào radar ở bên phải phòng lái, Trung-sĩ Trọng-pháo Hóa và Thủy-thủ Phòng-tai Mẹo cũng có mặt. Thấy Hóa đang đứng cạnh một cái ống loa được chuyền xuống từ trên nóc đài chỉ-huy, tôi hỏi anh ta:
- Những ai đang quan-sát ở trên kia vậy, anh Hóa?
- Thủy-thủ Bí-thư Thọ và Thủy-thủ Tập-sự Mão.
Ngay lúc đó, một giọng nói thật nhỏ chợt phát ra từ ống loa:
- Đài chỉ-huy!
Hóa đáp:
- Đài chỉ-huy nghe.
Anh ta lắng nghe rồi lặp lại:
- Quan-sát báo-cáo! Một luồng khói đang bốc lên ở hướng 12 giờ, khoảng-cách 1 hải-lý.
- Bảo họ quan-sát chung-quanh xem có ghe hay tàu nào khác hay không.
Tôi bảo Hóa, rồi bước đến máy radar.
Sau khi nhìn kỹ một điểm sáng ở ngay phía trên trung-tâm màn ảnh radar, tôi dùng ống nhòm quan-sát luồng khói đang vươn lên từ mặt biển phía trước con tàu, rồi nhấn một nút nhỏ trên máy liên-lạc nội-bộ. Vài giây sau, có tiếng đáp:
- Hạm-trưởng đang nghe đây.
- Báo-cáo hạm-trưởng. Một ghe đánh cá ở hướng 12 giờ, khoảng cách 1 hải-lý, đang đốt lửa cầu-cứu.
- Hãy quan-sát kỹ xem nó có cần được cứu hay không. Tôi sẽ lên đó ngay bây giờ. - Nhận rõ, Hạm-trưởng!
Tôi tắt máy liên-lạc rồi tiếp-tục quan-sát và nhận thấy là chiếc ghe không chạy mà trôi bồng-bềnh trên biển. Một lát sau, hạm-trưởng đi vào. Ông dùng ống nhòm quan-sát chiếc ghe đánh cá một hồi rồi ra lệnh:
- Hai máy ngừng.
Tôi lặp lại:
- Hai máy ngừng.
Đang đứng giữ tay lái, Ân cũng lặp lại lệnh này rồi dùng cả hai tay kéo hai cái cần số của 2 máy tả và hữu từ vị-trí nằm ngang lên vị-trí thẳng đứng. Hai tiếng chuông tức thì vang lên trong trụ cần số:
- Rinh. Rinh.
Cùng lúc ấy, Ân lớn tiếng báo-cáo:
- Hai máy đã ngừng. Hướng lái 270.
Hạm-trưởng lại ra lệnh:
- Lái thẳng.
Tôi lặp lại:
- Lái thẳng.
Ân vừa quay nhẹ tay lái vừa báo-cáo:
- Lái thẳng! Hướng đi 270.
Con tàu chậm lại, chạy tới trước một hồi, rồi ngừng hẳn. Chiếc ghe lúc này ở bên phải và cách chiến-hạm chỉ độ 100 mét. “Hết dầu hoặc hư máy.” Tôi nhủ thầm, rồi bước nhanh về phía cửa bên phải phòng lái. Ngay khi tôi nâng ống nhòm lên quan-sát chiếc ghe thì một tiếng nổ như sét đánh chợt phát ra làm tôi choàng dậy.
Lúc này, trời mới mờ sáng, chiếc ghe vượt-biên trở về vẫn tiếp-tục vật lộn với sóng gió, và Nam vẫn đang giữ tay lái. Bên ngoài, mưa không lớn nhưng biển vẫn động. Tôi dùng ống nhòm quan-sát chung quanh trên biển và vẫn không thấy bất cứ một ghe hay tàu nào khác. Sau khi giao tay lái cho tôi, Nam cầm đèn pin đi kiểm-soát máy ghe. Ngay sau khi mở nắp đậy ô cửa xuống hầm máy ở giữa phòng lái, anh ta hốt-hoảng la lớn:
- Trời ơi! Hầm máy bị ngập nước.
Nam chui xuống hầm máy một lát rồi leo lên nói:
- Cái máy bơm nước không nổ.
Dứt lời, anh ta chạy đến các hầm chứa khách. Khoảng mười phút sau, hai nhóm đàn ông đã được thành-lập để tát nước. Sau khi cắt bỏ phần trên của một số can nhựa để làm gàu, họ bắt đầu tát nước ra khỏi hầm máy qua hai ô cửa xuống hầm, một trong phòng lái và một phía sau phòng ngủ. Trong thời-gian này, Nam tiếp-tục sửa cái máy bơm nước chạy bằng xăng.
Hơn một tiếng đồng hồ sau, mặc dù các toán tát nước đã cố-gắng hết sức, mực nước trong hầm máy vẫn mỗi lúc càng tăng. Nếu cứ như thế này thì chẳng bao lâu nữa, máy ghe sẽ tắt và ghe sẽ bị chìm vì ngập nước. Trong khi tình-trạng của chiếc ghe mỗi lúc càng nguy-ngập thì Nam vẫn không sửa được cái máy bơm nước nên mọi người đều hoảng-sợ. Những tiếng cầu-kinh bắt đầu vang lên trong ca-bin phòng ngủ. “Trời ơi! Có phải đây là sự ứng-nghiệm cơn ác-mộng của vợ tôi hay không?” Tôi nhủ thầm khi chợt nhớ một lần vợ tôi nói là nàng đã thấy trong một cơn ác-mộng là tôi bị chết đuối trên đường vượt-biên, và tôi đã phải an-ủi nàng rằng mơ thì chỉ là mơ chứ không thể là sự thật. Thế mà giờ đây, chiếc ghe này sắp bị chìm. “Chúa ơi! Xin cứu con.” Tôi thầm cầu-nguyện. Ngay lúc đó, một trong những người ở bên ngoài ô cửa xuống hầm trong phòng lái hối-thúc:
- Lẹ lên!
Một người nào đó bên trong hầm máy lớn tiếng trả lời:
- Không thể nhanh hơn được. Ghe lắc quá!
Cuộc đối-thoại ngắn-ngủi này làm tôi nhận ra rằng sự lắc-lư liên-tục của chiếc ghe không chỉ làm cho việc múc nước vào gàu và chuyển chúng ra khỏi hầm máy trở nên khó-khăn, mà còn làm cho những người đứng bên ngoài luôn-luôn sợ bị trượt và té xuống biển. Do đó, tôi liền cho ghe giảm vận-tốc và đổi hướng đi qua trái 30 độ. Chiếc ghe sau đó tiến tới một cách chậm-chạp và không còn lắc-lư nữa nên các nhóm tát nước bắt đầu tát nước nhanh hơn.
Không đầy nửa giờ sau, mực nước trong hầm máy đã thấp xuống rất nhiều. Khi nước đã cạn hẳn và trục láp chân vịt đã lộ ra, Nam bảo các toán tát nước đợi tại chỗ cho anh ta kiểm-soát khắp nơi tìm chỗ rỉ nước. Tuy nhiên, chúng tôi rất ngạc-nhiên vì Nam không tìm ra chỗ rỉ nước, và mực nước ở trong hầm máy cũng không tăng lên. Sau khi bàn tính, chúng tôi quyết-định tăng vận-tốc máy tối-đa xem sao. Ngay khi tôi nhấn cần ga hết về phía trước thì Nam la lớn:
- Trục láp chân-vịt bị lỏng!
Sau đó, Nam yêu-cầu tôi kéo cần số máy về số không để anh ta sửa bộ-phận giữ trục láp. Sau khi siết chặt lại các con ốc trên bộ-phận này rồi bảo tôi tăng máy tối đa để kiểm lại, Nam nói là việc sửa-chữa đã xong vì nước không còn rỉ vào nữa, rồi bảo các toán tát nước trở về hầm của họ. Sau khi chiếc ghe quay lại hướng đi cũ và tiếp-tục chạy với vận-tốc đường trường để vào đất liền thì những tiếng rầm-rì cầu kinh trong phòng ngủ bớt dần rồi im bặt. Sau khi giao tay lái cho Nam, tôi mở hải-đồ chấm một vị-trí phỏng-định và nhận thấy là chiếc ghe đã vượt qua khu-vực nó gặp những chiếc tàu ngoại-quốc hôm qua. Bên ngoài, trời vẫn mưa và biển vẫn động. Với tình-trạng biển này thì ít ra cũng phải hai ngày nữa chiếc ghe mới về tới Vũng-Tàu.
Vài giờ sau, trong khi chiếc ghe vượt-biên trở về vẫn hải-hành đơn-độc thì mưa tạnh và sóng gió cũng giảm nên nhóm đầu bếp bắt đầu nấu ăn, và rất nhiều người khách rủ nhau ra khỏi hầm để hóng mát. Sau bữa ăn, thời-tiết không đổi nên phần đông những người khách vẫn ở trên sàn ghe. Vào buổi tối, trời mưa và biển động trở lại nên những người khách này đều phải trở xuống hầm. Vào khoảng nửa đêm, sau khi Nam giao tay lái cho tôi để đi ngủ, tôi vừa lái ghe vừa nghĩ đến những sự xui-xẻo trong dự-định vượt-biên của mình.
Gần ba năm trước đây, sau khi trở về nhà từ một trại tù cải-tạo, tôi phải kiếm sống bằng cách hàng ngày leo lên núi phía sau xứ đạo của chúng tôi để làm than và khuân-vác gỗ. Trong thời-gian này, một vài nhóm phục-quốc quân thường xuất-hiện vào ban đêm tại các làng xóm ven quốc-lộ rồi rút lui vào rừng, nên bộ-đội cộng-sản thỉnh-thoảng lại lục-soát trong rừng để bắt và đôi khi bắn chết bất cứ ai chúng nghi-ngờ là phục-quốc quân. Sau một lần bị chận lại ở trên núi, tôi không leo núi nữa, mà mua một chiếc ghe chèo và một cái chài để ra sông kiếm sống. Từ đó, tôi đã nhiều lần nhận làm tài-công để vượt-biên cùng với vợ con. Tuy nhiên, vì những sự xui-xẻo không thể lường trước được mà cho đến lúc này tôi vẫn chưa thành-công.
Lần xui-xẻo đầu tiên và đáng nhớ nhất đã xảy ra vào giữa năm 1979 khi gia-đình tôi vượt-biên cùng với Tuân, người đã được nói đến ở trên, và gia-đình anh ta. Lần này, ngoài vợ và con gái một tuổi, tôi còn đem theo em gái họ của tôi là Hường và hai người em vợ tôi là Lập và Thành. Sau khi di-chuyển trong đêm-tối từ giáo-xứ chúng tôi ra bến ghe, đám đông hơn một trăm người vượt biên bắt đầu băng qua bờ đê để đến nơi ẩn-núp. Ngay lúc này, một loạt tiếng súng bất thần nổ vang. Đám đông tức thì rời bờ đê để chạy băng qua một bãi bùn về phía các bụi cây ven một con sông trong rừng sát. Tôi cũng bồng con gái và dìu vợ tôi chạy theo họ. Sau khi ngồi xuống với vợ con trên mặt bùn bên dưới một bụi cây rậm, tôi mới biết là Hường và Thành đang ở bên cạnh, nhưng Lập đã chạy đâu mất. Từ nơi ẩn-núp này, tôi nghe rất rõ những tiếng quát-tháo dữ-dội của công-an và những tiếng kêu sợ-hãi của những người bị bắt trên bờ đê.
Thủy-triều đang lên nên chẳng bao lâu sau mực nước đã cao hơn mặt bùn gần nửa mét, nhưng chúng tôi vẫn phải âm-thầm ngâm mình dưới nước. Do đó, tôi rất lo là con gái mình có thể khóc vì bị lạnh, nhưng cô bé đã không hề khóc. Khi những tiếng quát-tháo và kêu-la đã im bặt, tôi nghe có những tiếng động lịch-kịch từ bến ghe. Biết là bọn công-an bắt đầu sử-dụng ghe chèo để lục-soát các bụi cây ven sông, tôi trao con gái cho vợ tôi, dặn nàng hãy bảo-trọng cho nàng và con, rồi ra khỏi bụi cây và lặng-lẽ bơi theo dòng sông để trốn. Sáng ngày kế tiếp, sau khi từ rừng sát về nhà và biết được là Lập đã về nhà trong đêm, nhưng vợ con tôi và Thành hiện đang bị giam trong đồn công-an Bà-Rịa, tôi đã nhờ bố vợ tôi đem cho họ một ít thức ăn và nước uống. Ngoài ra, tôi cũng biết được rằng Tuân đã trốn ra Bến-Đá, nhưng vợ và mấy đứa con anh ta cũng đang bị giam trong đồn công-an Bà-Rịa như vợ và con gái tôi.
Trưa ngày hôm sau, vợ tôi bồng con về nhà cùng với Thành. Nàng cho tôi biết rằng ngay sau khi những người bị bắt được chở về đồn công-an ở Bà-Rịa, công-an tức thì khám-xét rất kỹ từng người để tịch-thu vàng và nữ-trang. Sáng ngày kế tiếp, chúng gọi từng người lên hỏi về tình-trạng gia-đình và lý-do đi vượt-biên. Khi bị hỏi, vợ tôi trả lời rằng nàng chán người chồng nghiện rượu nên đã đi “canh-me”, tức là lén chen vào đám đông khách vượt-biên để lên ghe lớn mà không phải trả lệ-phí. Trước sau, công-an không cung-cấp thực-phẩm, nhưng cho phép những người bị bắt được nhận đồ ăn và thức uống do người thân gởi vào. Mới sáng hôm nay, công-an gọi tất cả đàn bà, con gái, và trẻ con ra khỏi nhà để chửi-rủa một hồi rồi cho về.
Lần xui-xẻo thứ nhì mà tôi không bao giờ quên đã xảy ra chỉ vài tháng sau lần thứ nhất. Hôm ấy khi trời đã sụp tối, vợ chồng tôi bồng con gái đi cùng với một đám đông khách vượt-biên từ giáo-xứ băng ngang quốc-lộ, rồi đi bộ độ một cây-số giữa một cánh đồng lúa để ra bờ đê. Trên đường đi, nhiều lúc mọi người phải ngồi thụp xuống bờ ruộng để tránh những ánh đèn xe trên quốc lộ. Ôm con sát vào ngực, tôi vừa bước tới vừa thủ-thỉ bảo con đừng sợ, và con tôi đã giữ yên-lặng từ đầu đến cuối như tôi muốn. Sau khi đã ẩn-núp suốt đêm trong các bụi cây gần bờ đê để đợi ghe lớn nhưng nó không đến, tất cả đám đông đã phải trở về giáo-xứ thật nhanh trước khi trời sáng, và rất may là không một ai bị công-an bắt cả.
Lần xui-xẻo thứ ba đã xảy ra vào một đêm đầu năm 1980, khi tôi và vợ con cùng với Tuân, vừa được tôi gọi về từ Bến-Đá để đi với chúng tôi, đang đợi người dẫn đường đến đón tại nhà thì một người nào đó gõ cửa. Sau khi bật đèn, tôi mở cửa và ngạc-nhiên thấy một toán du-kích có trang-bị súng AK47. Ngay lúc này, Tuân lặng-lẽ mở cửa sau nhà để lẻn ra ngoài. Sau khi cho biết là có một người nào đó trong xứ đạo đã báo với công-an Xã là chúng tôi tổ chức vượt-biên, những tên du-kích bắt đầu khám-xét khắp bên trong và bên ngoài nhà. Chỉ một lát sau, Tuân bị đẩy vào nhà với hai tay bị còng. Sau khi lục-soát mọi ngõ-ngách trong nhà, bọn du-kích mở tất cả các kệ và tủ để moi hết quần-áo của chúng tôi ra ném thành một đống trên nền nhà. Sau đó, chúng cầm từng cái lên để kiểm-soát nhưng đã không tìm thấy vàng, kim-cương, hoặc bất cứ thứ gì liên quan đến vượt-biên cả. Cuối cùng, chúng hỏi tôi tại sao Tuân lại ở đây. Tôi trả lời rằng Tuân đến thăm chúng tôi vì con gái chúng tôi đang bịnh. Anh ta và tôi có uống rượu trong bữa ăn tối nên tôi không muốn anh ta ra về vào ban đêm. Sau khi chần-chừ một lát, chúng tháo lấy cái còng sắt từ tay Tuân rồi bỏ đi. Chúng đã không biết rằng một bộ dụng-cụ hải-hành đang nằm im-lìm ở dưới đất phía sau nhà. Sáng hôm sau, Tuân lại ra Bến-Đá để ở với cha mẹ vợ và chờ một cơ-hội khác. Sau đó, tôi được biết là trong đêm ấy một số khách vượt-biên đã bị bắt ở trong xứ-đạo.
Ngoài ra, xen lẫn với những lần xui-xẻo trên đây, tôi cũng đã vài lần chuẩn-bị sẵn-sàng và đợi tại nhà để đem vợ con vượt-biên, nhưng sau đó lại được thông-báo là chuyến đi đã bị hủy-bỏ vì một lý-do nào đó, như nơi ém khách bị lộ, đường ra điểm hẹn không an-toàn, hoặc ghe lớn không thể đến được.
Trong tất cả những trường-hợp nêu trên tôi đều không nhìn thấy tận mắt ghe lớn mà chỉ nghe những người tổ-chức nói là ghe được mua từ Vũng-Tàu, Bình-Tuy, hoặc Phan-Thiết. Do đó tôi không biết chắc là họ có nói đúng sự thật hay không. Trên thực-tế, tôi đã từng nghe nói có một số người chỉ làm “mánh dổm”, tức là tổ-chức vượt-biên giả, để lường-gạt lấy vàng và tiền bạc của khách mà thôi.
Nhưng lần này, sau khi nhận làm tài-công cho ông Tá, tôi đã theo-dõi việc đóng chiếc ghe này từ khi nó còn trên ụ ở Bến-Đá và luôn nghĩ rằng mọi sự đều sẽ tốt đẹp. Tôi đã nhiều lần nói chuyện với chú Ngọc cũng như ông Tá và con rể ông ta là Nam và nghĩ rằng họ rất thành-thật. Do đó, dù biết là người tổ-chức vượt-biên chỉ cần người tài-công chớ không cần vợ con anh ta, tôi đã chấp-nhận đề-nghị của họ để một mình ra ghe lớn mà không nghi-ngờ gì cả. Thế rồi như đã kể ở trên, vợ con tôi đã bị bỏ rơi lại, và tôi đã phải miễn-cưỡng đem chiếc ghe này vượt-biên, nhưng định-mệnh lại đang làm cho tôi đưa nó trở về.
Giờ đây, tôi cầu mong rằng mình sẽ về đến nhà bình-yên vô-sự và sớm tìm được một cơ-hội khác để đào-thoát cùng với vợ con. Chắc hẳn là trong mấy ngày vừa qua, vợ tôi đã lo-lắng lắm, và con tôi thì cứ thắc-mắc là tại sao tôi không về nhà. Nghĩ đến điều này, tôi chợt ứa nước mắt vì không thể biết là những gì sẽ xảy ra cho mình và vợ con trong tương-lai, và nhất là trong vài ngày sắp tới.
Sáng hôm sau, trời vẫn mưa nặng hạt và biển vẫn động. Vào khoảng giữa trưa, trong khi thời-tiết không thay đổi, chúng tôi phát-hiện một chiếc ghe lạ ở phía bên trái cách chúng tôi độ nửa cây số. Sau khi dùng ống nhòm quan-sát và nhận thấy chiếc ghe này đang trực-chỉ hướng bắc, tôi bảo Nam đang ngồi giữ tay lái: - Chiếc ghe này đang cắt ngang đường đi của mình.
Nam nhìn nó một lát rồi lo-lắng nói:
- Nếu nó đuổi theo thì mình chẳng có cách nào chạy thoát!
Tôi quan-sát lại một lần nữa rồi nói:
- Có thể nó đang trên đường về Bình-Tuy hoặc Phan-Thiết.
Khi chiếc ghe lạ đến gần hơn, tôi nhận thấy nó cũng dài độ 20 mét như ghe chúng tôi, nhưng có một lá cờ đỏ sao vàng của Cộng-Sản Việt-Nam trên nóc ca-bin. Tuy nhiên, tôi không thể nhìn thấy bất cứ ai trên chiếc ghe này vì các cửa sổ và cửa ra vào ca-bin của nó đều đóng kín. Ngay khi tôi cho Nam biết có một lá cờ Việt-Cộng trên chiếc ghe này, anh ta hoảng-hốt kêu lên:
- Nó phải là của công-an biên-phòng hoặc hải-tặc quốc-doanh!
Tôi ngạc-nhiên hỏi:
- Hải-tặc quốc-doanh?
Nam liền cho tôi biết là một số ghe đánh cá quốc-doanh có thể lén-lút, hoặc được công-an địa-phương cho phép cũng không chừng, trang-bị súng-ống để uy-hiếp và bắt các ghe vượt-biên. Những ghe này thường đi một mình, hoặc một cặp, ra khỏi khu-vực đánh cá để tìm và đuổi bắt các ghe vượt-biên. Khi gặp một ghe vượt-biên, tất cả các ngư-phủ trên những ghe đánh cá quốc-doanh này tức-khắc trở thành hải-tặc. Chúng bắn súng bắt ghe vượt-biên ngừng lại, rồi nhảy sang, dùng súng khống-chế người vượt-biên. Sau đó, chúng lục-soát mọi người và mọi ngõ-ngách trên ghe vượt-biên để lấy vàng, nữ-trang, tiền-bạc, và ngay cả những thứ quần-áo đắt giá. Cuối cùng chúng kéo ghe vượt-biên vào bờ giao cho công-an biên-phòng để lãnh thưởng.
Giờ đây trong cơn mưa bão, chiếc ghe đầy đe-dọa này đang đến gần hơn. Sợ rằng nó sẽ nghi-ngờ và rượt theo, chúng tôi quyết-định không bỏ chạy, mà cho ghe tăng vận-tốc để vượt qua trước mặt nó. Khi ghe chúng tôi vượt qua ở khoảng cách chỉ độ năm mươi mét trước mũi, chiếc ghe này vẫn giữ nguyên vận-tốc và hướng đi như trước. Một lát sau, khi chiếc ghe này đã mất dạng, chúng tôi lại cho ghe chạy với vận-tốc đường trường. Trước sau, chúng tôi vẫn không biết chiếc ghe lạ này có phải là của công-an biên-phòng hoặc hải-tặc quốc-doanh hay không. Tuy nhiên, chúng tôi tự hỏi nếu là một ghe đánh cá quốc-doanh bình thường thì tại sao nó không vào bờ từ mấy ngày trước để tránh bão? Đàng khác, chúng tôi cũng nghĩ rằng nếu ghe này là một ghe vượt-biên thì những người trên ghe cũng đã sợ chúng tôi như chúng tôi sợ họ.
Không bao lâu sau khi chiếc ghe kia đã đi khỏi thì mưa tạnh và sóng gió cũng giảm. Chiếc ghe vượt-biên trở về không còn trồi lên hụp xuống hoặc lắc-lư như trước. Nhóm đầu bếp bắt đầu làm việc, và những người khách từ dưới hầm lại leo lên sàn ghe để thở không-khí trong lành trên biển. Sau bữa ăn chiều thì sóng gió ngưng bặt và mặt biển trở nên láng-bóng như gương và phẳng-lặng như bàn thạch, nên chiếc ghe ung-dung rẽ nước tiến tới mà không hề lắc-lư gì cả. Số khách ngồi trên sân mũi và sân lái ghe mỗi lúc càng tăng. Có lẽ cảnh vật bình-yên và êm-đềm trên biển đã làm cho mọi người tạm quên đi những nỗi hiểm-nguy của giông-bão trong mấy ngày qua.
Vào khoảng nửa đêm, khi hầu hết những người khách đều đã trở xuống hầm thì mặt trăng bắt đầu chợt ẩn chợt hiện giữa những đám mây mù. Tôi giao tay lái cho Nam rồi bước ra khỏi phòng lái để dùng ống nhòm quan-sát thật kỹ chung quanh. Trên mặt biển mênh-mông và êm như nước hồ Thu, chiếc ghe vẫn hải-hành đơn-độc hướng vào bờ. Ngay phía trước mũi ghe, đèn hải-đăng ở Vũng-Tàu đang chớp tắt trên đường chân-trời chứng tỏ là chiếc ghe sắp sửa đi vào vùng đánh cá mà nó đã đi qua trước đây. Nếu mấy ngày vừa qua không có bão thì vào lúc này, ở đây phải có vô-số ghe đánh cá. Tôi cho Nam biết là chiếc ghe đã về tới vùng đánh cá, rồi bảo anh ta đổi hướng lái của ghe từ 310 sang 315 độ để đi thẳng vào Vũng-Tàu. Sau khi cho ghe đổi hướng xong, anh ta hỏi tôi:
- Khi nào thì mình về tới Vũng-Tàu?
- Sáng mai.
- Trời ơi! Mọi người sẽ bị bắt nếu ghe về tới đó vào ban ngày.
- Vậy thì mình hãy cho ghe ngừng ở đây, rồi chiều mai tiếp-tục đi vào.
Nam không nói gì cả. Tôi bảo anh ta:
- Chúng ta phải bàn với chủ ghe.
Nam giao tay lái cho tôi, rồi vào ca-bin đánh thức ông Tá và mời ông ta lên phòng lái. Sau một hồi bàn tính, ông Tá bảo chúng tôi rằng chiếc ghe có thể lẩn-trốn giữa hàng ngàn ghe đánh cá ở Cần-Giờ từ sáng đến tối, rồi lén vào sông Cát-Lở và cập vào bờ trong đêm tối để mọi người chạy trốn. Do đó chúng tôi cho ghe tiếp-tục đi vào bờ.
Khi trời sáng thì chiếc ghe chỉ còn cách bờ độ hai hải-lý. Biển cũng êm nhưng mặt biển không phẳng-lặng như ở ngoài khơi, và nước biển đục ngầu và có màu nâu nhạt của phù-sa. Sau khi quan-sát, tôi nhận ra rằng trên vùng cửa biển rộng lớn từ Cần-Giờ đến Vũng-Tàu không có một chiếc ghe đánh cá nào cả. Trận bão vừa qua vẫn còn bắt buộc các ngư-phủ phải ở nhà. Ông Tá đã lầm một cách trầm-trọng.
Vài giờ sau, ghe chúng tôi đã được neo ở bãi biển Cần-Giờ. Chiếc ghe dài hai mươi mét nằm lồ-lộ trên mặt biển mà chung quanh không hề có một ghe nào khác khiến tôi rất lo ngại. Tuy nhiên, sau khi dùng ống nhòm quan-sát núi nhỏ và núi lớn Vũng-Tàu nhưng không thể nhìn thấy nhà cửa trong thị-xã, tôi cảm thấy yên tâm phần nào. Ngoại trừ những người đứng trên núi để quan-sát bằng ống nhòm, không một ai ở trong thị-xã có thể nhìn thấy ghe chúng tôi. Chỉ độ mươi phút sau khi ghe được thả neo, hầu hết những người khách đã ở trên sàn ghe.
Sau khi mỗi người được phát một gói mì khô, một số đàn ông con trai, bất kể nước biển rất đục, bắt đầu rủ nhau nhảy xuống biển để bơi lội và tắm rửa. Cùng lúc đó, một số khá đông những người khách đến gặp ông Tá để đòi lại số vàng họ đã nộp cho ông ta. Ông Tá từ chối và nói rằng ngoài việc phải chi tiền để đóng ghe và hối-lộ công-an để đem chiếc ghe ra khỏi bến ghe Bến-Đá, ông ta còn phải mua dầu, nhớt, và thực-phẩm, và thuê những nơi ém khách và các ghe taxi. Ông Tá còn phàn-nàn rằng ông ta đã bị lỗ khoảng năm mươi lượng vàng vì không thâu được của những người khách bị lọt lại ở Bà-Rịa.
Trong khi ông Tá tranh-cãi với khách, Nam nói với tôi rằng sau khi mọi người lên bờ, anh ta sẽ lái ghe vào trong rừng sát để dấu, rồi sắp-xếp một cuộc khởi-hành mới. Anh ta dặn tôi nếu không bị bắt thì phải luôn-luôn ở nhà để anh ta có thể liên-lạc khi mọi sự sẵn-sàng. Tôi hỏi tại sao anh ta không cho người vào bờ ngay bây giờ để mua thêm dầu nhớt rồi cho ghe khởi-hành nữa mà không cần phải thả khách, Nam trả lời rằng anh ta cần phải tìm thêm một số khách mới để có tiền mua dầu. Anh ta còn nói rằng mỗi người khách cũ ở đây muốn đi nữa cũng phải trả thêm một lượng rưỡi vàng.
Khi trời gần tối thì mưa bắt đầu rơi và sóng gió lại nổi lên nên mọi người phải vào trong ca-bin hoặc các hầm chứa khách, và tất cả các cửa ra vào và cửa sổ trên ghe đều được đóng lại. Không bao lâu sau đó thì có một chiếc tàu buôn từ ngoài biển đi vào vịnh. Sợ bị lộ, chúng tôi vội-vã kéo neo lên, khởi-động máy, rồi cho ghe chạy từ-từ trên biển. Sau khi chiếc tàu buôn đã vượt qua ghe chúng tôi rồi tiếp-tục đi thẳng về phía cửa sông Lòng-Tàu, chúng tôi cho ghe ngừng lại thả trôi để chờ tối. Nhưng ngay sau đó, tôi dùng ống nhòm quan-sát và thấy một chiếc tàu nhỏ màu đen từ Vũng-Tàu đang chạy về phía chúng tôi. Tôi bảo Nam đang ngồi trước tay lái:
- Một chiếc tàu nhỏ màu đen từ Vũng-Tàu đang chạy về phía chúng ta.
- Tàu biên-phòng!
Ngay khi dứt lời, Nam nhấn cần số hết về phía trước, rồi lái ghe chạy theo chiếc tàu buôn. Trong khi đó, chiếc tàu màu đen cứ mỗi lúc một gần chúng tôi hơn.
Tôi đang tự hỏi không biết là chiếc tàu màu đen đang rượt ghe chúng tôi hay rượt chiếc tàu buôn thì Hà chạy ùa vào phòng lái và run-rẩy nói:
- Tàu… tàu công-an đang… đang rượt theo. Mình… mình phải chạy… chạy nhanh!
Dứt lời, anh ta mở hé cửa bên phải phòng lái, rồi run-rẩy đưa một khung ảnh thánh Mác-Tin to bằng cuốn sách về hướng chiếc tàu và lắp-bắp nói:
- Lạy Thánh… Thánh Mác-Tin! Xin bịt… bịt mắt chúng lại. Đừng để chúng thấy… thấy ghe chúng con.
Thánh Mác-Tin, tức là Saint Martin De Porres (1579-1639) của Giáo-Hội Công-Giáo La-Mã, khi còn sinh-thời luôn-luôn giúp-đỡ và che-chở những kẻ túng nghèo và cả những thú-vật và chim-chóc, nên người Công-giáo thường cầu-nguyện với ngài để xin được phò-trợ mỗi khi gặp khó-khăn. Sau khi cộng-sản Bắc-Việt cưỡng chiếm miền Nam Việt-Nam, rất nhiều người công-giáo Việt-Nam trước khi đi vượt-biên thường cầu-nguyện với thánh Mác-Tin với hy-vọng là ngài sẽ làm cho họ được thành-công.
Chiếc tàu màu đen càng đến gần thì Hà càng run và càng lặp-đi lặp-lại lời cầu xin bịt mắt chúng nó của and ta. Cùng lúc đó, mọi người trong ca-bin cũng lớn tiếng đọc kinh cầu-nguyện. Lạ thay, chỉ vài phút sau, trời bất-thần mưa như trút nước khiến khắp vùng vịnh trở nên mù-mịt. Lợi dụng cơ-hội này, Nam cho ghe quay mũi về bên phải để chạy về phía đảo Long-Sơn.
Khi mưa đã giảm bớt và chiếc ghe chỉ còn cách đảo này độ một cây số, chúng tôi chợt phát-hiện một chiếc tàu màu đen khác ở gần bờ nên lại phải cho ghe quẹo phải để chạy về hướng Cát-Lở. Cùng lúc đó, vì sợ bị bắt, mọi người trong ca-bin lại lớn tiếng đọc kinh cầu nguyện, và Hà cũng đưa hình thánh Mác-Tin hướng về chiếc tàu và lặp đi lặp lại lời cầu-nguyện xin bịt mắt chúng nó. May thay, chiếc tàu này trước sau vẫn không phản-ứng gì cả. Một lát sau, Nam cho ghe ép sang trái để đến gần một đám ghe đánh cá ở gần bờ một cù-lao nhỏ tiếp-giáp với Sông Cát-Lở. Lúc này, trời vẫn còn mưa nhưng chưa tối hẳn nên chúng tôi không dám cho ghe chạy thẳng vào sông Cát-Lở.
Sau khi ghe chúng tôi đi qua đám ghe đánh cá, rồi tiếp-tục đi một mình về hướng cửa sông Cát-Lở, chúng tôi phát-giác chiếc tàu chúng tôi vừa thấy gần đảo Long-Sơn đang di-chuyển về phía chúng tôi. Ngay khi Nam tăng vận-tốc ghe lên tối đa để chạy trốn, Hà lại hấp-tấp đến sát cửa bên phải phòng lái, rồi đưa hình thánh Mác-Tin hướng về chiếc tàu và lớn tiếng cầu-nguyện:
- Giê-su… Giê-su, Maria, Giuse! Lạy thánh… Thánh Giu-se, Thánh… Thánh Phê-rô, Thánh Phao-lô, và tất cả các… các Thánh Nam Nữ ở trên trời. Xin hãy bịt… bịt mắt chúng nó lại.
Sau khi lặp lại lời cầu-nguyện này vài lần, Hà ngừng một lát rồi tiếp:
- Lạy Chúa! Xin đừng… đừng để con bị… bị bắt. Con xin thề… thề…
Anh ta lại ngừng rồi im bặt. Cùng lúc ấy, mọi người trong ca-bin cũng lại lớn tiếng đọc kinh cầu-nguyện. Bỗng chốc, trời chợt tối sầm lại rồi mưa tầm-tã đến nỗi chúng tôi không còn nhìn thấy chiếc tàu nữa. Nhân dịp này, Nam cho ghe chạy men theo bờ ở bên trái rồi đi vào sông Cát-Lở. Sau khi ghe đã vào trong sông thì trời tối hẳn. Tôi dùng ống nhòm quan-sát và mừng thầm vì chung quanh không có bất cứ một ghe hay tàu nào cả.
Sau khi chiếc ghe vượt-biên trở về đã đi vào trong sông được một lát, Nam giảm vận-tốc ghe, yêu-cầu mọi người trong phòng ngủ nằm xuống và tuyệt-đối giữ im lặng, rồi nói:
- Mình sắp sửa đi ngang Thành Hải-Quân, nếu chúng chận ghe lại thì mình chết cả lũ!
Biết rằng nơi Nam gọi là Thành Hải-Quân chính là Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lở của Việt-Nam Cộng-Hòa trước kia, tôi hỏi anh ta:
- Ở đó phải có rất nhiều tàu của chúng. Mình có nên quay trở ra không?
- Không! Nếu mình đi trở ra thì chúng lại càng nghi ngờ. Hơn nữa, hai chiếc tàu kia có thể đang lùng-kiếm mình ở ngoài đó.
- Vậy bây giờ mình phải làm sao?
- Phải liều thôi! Mình cứ làm như vừa đi đánh cá về để đi qua Thành Hải-Quân, rồi cho ghe vào bến ghe phía sau xứ-đạo Nam-Bình để mọi người chạy trốn. Lúc này, trời vẫn mưa tầm-tã và chiếc ghe vẫn tiếp-tục đi sâu vào trong sông. Tôi đến bên Nam, gỡ cái hải-bàn bỏ vào trong một bao ny-lông cùng với cái ống nhòm và tấm hải-đồ, rồi cột chặt bao lại bỏ vào trong túi xách của mình để đeo lên vai. Khi chiếc ghe vượt qua Thành Hải-Quân ở phía bên phải, nó chỉ cách các cầu tàu độ năm mươi mét, nên Nam và tôi phải nín thở vì sợ hãi. Tuy nhiên, không một chiếc tàu nào ở đây phản-ứng gì cả.
Sau khi ghe đã qua khỏi Thành Hải-Quân một cách an-toàn, Nam cho ghe đi gần vào bờ bên phải. Tôi vỗ nhẹ vai anh ta để từ-biệt, rồi vào ca-bin bảo Bắc đi theo ra sân lái. Sau khi xắn quần lên khỏi đầu gối, chúng tôi đứng sát mạn thuyền bên trái để chờ đợi. Vài phút sau, chiếc ghe chở trên một trăm người thình-lình quay mũi thật nhanh về bên phải, trườn lên bãi bùn, rồi ngừng lại cách bờ sông độ hai mươi mét. Không chần-chờ gì cả, tôi vỗ nhẹ vai Bắc rồi nhảy khỏi ghe. Bắc tức-khắc nhảy theo. Mặc dù bị lún bùn tới đầu gối, chúng tôi vẫn lội thật nhanh qua bãi bùn để vào bờ, rồi chạy qua một đám ruộng vào xứ đạo Nam-Bình. Mặc kệ cơn mưa tầm-tã và những tiếng chó sủa từ một vài căn nhà nào đó dọc theo con đường nhỏ dẫn ra quốc-lộ, chúng tôi tiếp-tục chạy trong đêm tối như bị ma đuổi, và chẳng mấy chốc là ra tới quốc-lộ.
Cát-Lở trong đêm dưới cơn mưa tầm-tã hoàn-toàn vắng-vẻ. Dưới ánh sáng lờ-mờ phát ra từ các cột điện bên đường, chúng tôi băng ngang quốc-lộ, rồi quẹo trái và chạy thật nhanh về hướng Bà-Rịa. Sau khi chạy được chừng mười phút, tôi chợt thấy ở bên kia đường một nhóm người đang đi bộ ngược chiều với chúng tôi. Những tiếng lách-cách phát ra từ bọn họ khiến tôi nghĩ rằng đây là một nhóm bộ-đội hoặc du-kích cộng-sản có mang súng. Tôi bảo Bắc chậm lại và bước đi một cách bình-thường. Những người bên kia đường cũng đi chậm lại, rồi một người trong bọn họ đi ra giữa đường như muốn chận chúng tôi lại. Ở bên này đường, tôi rất lo-lắng về những dụng-cụ hải-hành, nhưng không dám ném túi xách của tôi đi vì sợ người kia sẽ nghi-ngờ hơn. May thay, sau khi ra đến giữa đường, người kia chần-chừ một lát rồi quay trở lại đi với đồng bọn. Khi nhóm người này đã mất dạng trong đêm tối, chúng tôi lại tiếp-tục chạy thật nhanh để rời xa khu-vực nguy-hiểm này càng sớm càng tốt.
Sau khi chúng tôi ra khỏi ấp Nam-Bình thì mưa tạnh. Ở hai bên quốc lộ lúc này là những cánh đồng rộng lớn. Tôi bảo Bắc đi chậm lại, rồi chăm-chú quan-sát để tìm một chỗ dấu dụng-cụ hải-hành. Một lát sau, tôi thấy một cột điện bên đường khác với những cột điện chúng tôi đã đi qua vì có một sợi cáp giăng từ lưng-chừng cột xuống vệ đường bên phải. Thêm vào đó, ở lề đường bên trái lại có một cây cao đang vươn lên trên nền trời đêm. Tôi bảo Bắc ngồi xuống đợi, rồi lần xuống bờ ruộng. Sau khi lấy bao ny-lông đựng dụng-cụ hải-hành ra khỏi túi xách, tôi tưởng-tượng một đường thẳng từ chân cột điện ngang qua chân sợi dây cáp đến một điểm trên bờ ruộng, dùng tay đào một lỗ ở dưới ruộng ngay bên cạnh điểm này, rồi chôn cái bao xuống. Sau khi rửa tay xong, tôi đeo túi xách lên vai leo lên quốc-lộ, rồi tiếp-tục chạy cùng với Bắc về hướng Bà-Rịa.
Một lát sau, chúng tôi đi chậm lại và chợt nhận ra có một đường ống khổng-lồ đường kính hơn một mét chạy dọc theo lề đường bên phải. Mỗi đoạn của đường ống này được nâng-đỡ bởi một cái bệ bằng xi-măng. Chúng tôi dừng lại trước một bệ xi măng rồi leo qua đường ống để nghỉ qua đêm. Sau khi cởi áo ra vắt thật kỹ rồi mặc lại, chúng tôi dựa lưng vào bệ xi-măng để ngủ. Tuy nhiên, khi Bắc đã ngủ say thì tôi vẫn chưa ngủ được vì lo-lắng. Giờ này ở Nam-Bình, chiếc ghe của ông Tá chắc chắn là đã bị bắt, và bọn công-an địa-phương đang truy-lùng khắp nơi để bắt những người vượt-biên trở về. Nếu chúng thông-báo cho công-an gác cầu Cỏ-May gần Bà-Rịa thì chúng tôi không có cách nào lọt qua được để về nhà.
Nếu Bắc và tôi bị bắt thì gia-đình chúng tôi sẽ không bao giờ biết được. Nghĩ đến vợ con, tôi chợt cảm thấy buồn rười-rượi. Có lẽ giờ này vợ tôi cũng không thể ngủ được vì lo-lắng. Đối với nàng thì chiếc ghe đã đi năm ngày mà không có tin-tức gì cả có nghĩa là nó đã không bị công-an biên-phòng bắt. Nhưng nào ai biết được là chiếc ghe vẫn đang an-toàn, hay nó đã bị đánh chìm trên biển vì trận bão vừa qua, và tôi đã chết như nàng đã từng thấy trong một cơn ác-mộng? Càng suy nghĩ, tôi càng cảm thấy tội-nghiệp cho nàng. “Em yêu ơi! Anh đang trên đường trở về với em và con đây. Hãy cầu-nguyện cho anh sáng mai không bị bắt ở cầu Cỏ-May.” Tôi thầm-thì cầu-nguyện một hồi, rồi ngủ thiếp đi.
Giật mình thức giấc và nghe có tiếng máy xe vọng tới từ xa, tôi đánh thức Bắc và bảo em đi theo, rồi cầm xách tay leo qua đường ống để ra quốc lộ. Trời vẫn còn đêm. Từ phía ấp Nam-Bình, một chiếc xe Lam, một loại xe có ba bánh, mở đèn sáng rực đang tiến tới. Ngay khi tôi vẫy tay, chiếc xe chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe đầy người và hàng-hóa. Ngoài những bao bị trên nóc ca-bin, mỗi bên cửa sau xe đều có treo một giỏ rau đầy ắp. Mặc dù xe quá tải, người tài-xế thản-nhiên bảo chúng tôi:
- Lên xe đi.
Khi Bắc và tôi lách vào giữa hai giỏ rau thì những hành-khách trong ca-bin lặng-lẽ ngồi xích vào trong cho chúng tôi ngồi. Chiếc xe sau đó lại tiếp tục chạy về hướng Bà-Rịa.
Ngồi đối-diện với Bắc ở cửa sau xe, tôi bắt đầu lo-lắng. Ngoài việc quần-áo chúng tôi dính bùn, không ai trong chúng tôi đi giày dép gì cả. Khi xe ngừng ở trạm kiểm-soát phía trước cầu Cỏ-May thì trời còn tối, nhưng tôi vẫn phải nín thở vì sợ-hãi. Một gã công-an đi đến bên cạnh người tài-xế và hỏi:
- Có gì “nạ” không, bác tài?
- Cũng bình thường như mọi ngày.
Sau khi người tài-xế trả lời, gã công-an đi về phía sau xe, rọi đèn pin vào ca-bin vài giây, rồi lớn tiếng nói:
- Được rồi. Đi đi.
Mặc dù nghĩ rằng người tài-xế đã hối-lộ gã công-an, tôi chỉ tin là mình đã thoát khỏi trạm kiểm-soát này sau khi chiếc xe đã qua cầu.
Xe ngừng ở bến xe Lam gần chợ Bà-Rịa. Tôi trả tiền xe rồi dẫn Bắc đến gõ cửa một hàng tạp-hóa trong chợ, mà tôi đã vài lần đến cùng với vợ tôi, và gọi:
- Dì Sáu ơi. Dì Sáu!
- Ai đấy?
Biết rằng người đàn bà này chỉ quen biết vợ mình vì nàng là bạn của con gái bà, tôi trả lời:
- Cháu là chồng của Nhung. Dì không nhận ra sao?
- Ơ hay! Sao cháu còn ở đây?
Dì Sáu bật đèn lên, rồi mở cửa và hỏi tiếp:
- Nghe nói cháu đã vượt biên mấy ngày rồi. Sao bây giờ lại ở đây?
- Ghe gặp bão nên mọi người đòi về!
- Hãy về nhà ngay đi. Chắc là Nhung nó đang lo-lắng lắm đấy.
- Nhưng chúng cháu cần mua vài đôi dép. Ra đón xe không có dép, chúng cháu sẽ bị bắt.
Dì Sáu nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nói:
- Các cửa hàng đều chưa mở cửa. Cháu hãy dùng tạm đôi dép của Dì.
Dứt lời, bà gỡ đôi dép Nhật đang đi dưới chân đưa cho tôi. Tôi quay qua nhìn Bắc thì em nói:
- Em đi chân không cũng được.
Tôi nhận đôi dép và cám ơn dì Sáu, rồi cùng Bắc đi bộ ra bến xe. Đi được một lát, Bắc chợt bảo tôi:
- Một người bạn của bố em ở gần đây. Mình mượn xe đạp để về nhà thì hay hơn. Tôi gật đầu đồng ý, rồi đi trở lại thị-xã với Bắc. Độ nửa giờ sau, Bắc đi chân không đạp một chiếc xe đạp chở tôi ra khỏi thị-xã để về xứ đạo của chúng tôi.
Sau khi tôi kể tóm-tắt những gì đã xảy ra cho tôi trong năm ngày qua, vợ tôi cho tôi biết là sau khi rời bến xe Bà-Rịa, nàng và con gái đã không được ém chung nhà với Lập, Tấn, và Khanh mà với người anh họ tôi là Tuân và đứa con trai 10 tuổi của anh ta là Tuy. Chủ nhà tiếp-đãi khách rất tử-tế nhưng tuyệt-đối không cho ai ra khỏi nhà. Tối ngày hôm sau, mọi người được dẫn đến một quán ăn ở phía đông và cách cái rạp hát duy-nhất ở Bà-Rịa độ hai trăm mét. Khi số người vượt-biên ở trong quán đã lên đến độ ba chục người thì một người đàn ông dẫn-đường đến bảo họ đi theo ông ta.
Trên đường đi, vợ tôi rất lo-sợ vì đám người vượt-biên mang theo túi xách có thể bị phát-hiện một cách dễ-dàng. May thay, trước sau không có một tên công-an nào xuất-hiện. Khi người đàn-ông dẫn đường và đám đông đang đi phía trước rạp hát thì một xuất chiếu phim cũng vừa chấm-dứt, nên hàng trăm người xem phim từ trong rạp ùa ra hòa lẫn vào với họ. Vào lúc này, người đàn ông dẫn đường biến mất. Một lát sau, một số người vượt-biên tụ lại và hỏi nhau về người đàn ông dẫn đường, nhưng chẳng ai biết ông ta ở đâu cả. Cuối cùng, mọi người đã phải rời rạp hát để tránh bị bắt, rồi vào chợ hoặc bến xe để chờ cho tới sáng mới đón xe về nhà.
Trong lúc đó, ba thanh niên trẻ, Lập, Tấn, và Khanh được người chủ nhà ém khách tiếp-đãi rất tốt bằng những thức ăn ngon và cả bia nữa. Nhưng vào tối ngày kế-tiếp, họ đã bị mời ra khỏi nhà vì không có ai đến đón đi cả. Cả ba người đã phải xách giỏ đi lang-thang trong thị-xã, rồi đến bến xe để chờ sáng như những người vượt-biên kể trên.
Sáng sớm hôm sau, sau khi mặc đồ ngư-phủ và đeo lên lưng một cái gùi bằng tre trong đựng vài cái móc sắt dùng để bắt cua, một bi-đông đầy nước, một mảnh vải nhựa dùng để đi mưa, và một bó rau muống, tôi đi xe đạp ra Nam-Bình. Vài giờ sau, tôi đã moi cái túi dụng-cụ hải-hành từ dưới ruộng lên, rồi đem về nhà một cách an toàn. Trước sau, tôi đã không bị công-an ở trạm kiểm-soát ở cầu Cỏ-May chận lại kiểm-soát. Sau khi dấu dụng-cụ hải-hành ở nhà, tôi tự nhủ là mình đã rất may-mắn.
Nhưng ngay chiều ngày hôm sau, một tên du-kích thình-lình đưa đến cho tôi một tờ giấy của Ủy-Ban Nhân-Dân Ấp mời tôi ra văn-phòng ấp vào lúc 8 giờ sáng mai, nên tôi đã phải vội-vã đón chuyến xe đò chót trong ngày để đi lánh nạn ở nhà một người bà con ở Sài-Gòn. Hơn hai tuần sau, vợ tôi lên Sài-Gòn đón tôi về vì toàn-bộ Ủy-Ban cũ đã bị cách chức và kết tội hối-lộ và ăn hối-lộ, và một Ủy-Ban mới đã được thành-lập.
Vài tháng sau, trong một dịp đến thăm chú Ngọc ở ấp Nam-Bình, tôi được biết là sau khi chiếc ghe của ông Tá ủi vào bến ở ấp này, những người khách vượt-biên không sinh-sống ở đây đã chạy tản-mát khắp nơi để trốn qua đêm, nhưng hầu hết đều đã bị bắt vào sáng hôm sau. Ngược lại, những người sinh-sống ở đây như ông Tá, chú Ngọc, và bà con của họ đều trở về nhà một cách an-toàn vì trước khi ra đi đã sắp-xếp người giữ nhà. Tuy nhiên ngay sáng hôm sau, tất cả đã ra đầu-thú với công-an địa-phương. Trong khi đó, Nam đã đợi nước lên rồi lái ghe vào rừng sát để trốn. Vài ngày sau, vì không liên-lạc được với người thân, anh ta đã lái ghe ra bến ghe Bến-Đá để đầu-thú. Trước hoặc sau, mọi người đều bị nhốt vào nhà tù ở Vũng-Tàu. Sau độ một tháng ở trong tù, ông Tá, Nam, chú Ngọc, và những người bà con của họ đã hối-lộ để được thả. Tôi đã quên không dò hỏi về tình-trạng của Hà và đồng bọn cũng như tình-trạng của ba người khách phục-quốc.
Từ đó về sau, mỗi khi nhớ lại chuyến vượt-biên “Tính Một Đàng Sang Một Nẻo” này, tôi luôn-luôn cho rằng mình đã xui nhưng vẫn còn hên. Thật vậy, ngay khi ghe khởi-hành, tôi đã nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại vợ con nữa, nhưng rốt cuộc thì định-mệnh đã đưa tôi trở về như tôi muốn. Hơn thế nữa, tôi đã không bị bắt nên mới có thể tiếp-tục sinh-sống bình-thường với vợ con và chuẩn-bị cho một chuyến vượt-biên mới.



Vũ-Hữu-Lý


( Trở về đầu trang )


[ Trang Hải Trình ]