những ngày tháng không quên
Tân Phước Khánh tuy chỉ cách Thủ Dầu Một (Bình Dương) khoảng hơn mười cây số, và cách thủ đô Sài Gòn khoảng ba mươi cây số nhưng chưa được phát triển lắm, và chỉ là một thị trấn nhỏ nửa quê nửa tỉnh, thế nhưng nổi tiếng lắm. Ngày xưa khi mà ở đây còn là rừng rậm hoang vu, người thưa đất rộng thì có rất nhiều cọp, mà toàn là cọp dữ có tiếng; Vì vậy cũng sinh ra nhiều anh hùng giết cọp, họ có những món võ gia truyền bí hiểm, mỗi khi đi đường gặp cọp hay nghe chiêng trống báo động có cọp về làng bắt người, bắt trâu bò, họ lập tức tham chiến ngay, và chỉ với hai tay không họ cũng có thể giết được cọp hay đuổi được cọp chạy dài. Qua cửa miệng của người dân, hay qua một số bài viết, chúng ta đã nghe, đã thấy câu “cọp Tân Phước Khánh” là để khẳng định rằng vùng đất Tân Phước Khánh có rất nhiều cọp dữ. Khi đặt chân đến đây, tôi cũng rất ngạc nhiên vì cách thủ đô Sài Gòn và Thủ Dầu Một không bao xa mà sao chậm phát triển qúa vậy? Tôi đến nhận nhiệm sở vào tháng 9 năm 1979 thì nơi này rất quê, nhà cửa không nhiều, đường xá ít ỏi, chỉ có một bến xe nhỏ nằm cạnh cái chợ cũng nhỏ, chỉ có con đường trước mặt chợ được tráng nhựa, nhà cửa san sát nhau mà thôi, và trường cấp III Tân Uyên 2 nằm trên con đường này. Tuy là phố chính, nhà cửa được xây sát vách nhau kiểu phố chợ nhưng cái thì cao, cái thì thấp, cái thụt ra, cái thụt vào không đều nhau nên trông rất lộn xộn, không được mỹ quan cho lắm. Ở Tân Phước Khánh này chỉ có một số ít dân chúng làm nghề buôn bán, một số ít khác có lò gốm sản xuất lu, khạp, tô, chén v.v… và hoàn toàn làm theo thủ công nghệ, còn lại phần đông thì làm rẫy, làm ruộng, và họ vẫn còn dùng xe bò để chở đồ.
Tôi đến trường với một cõi lòng buồn nên nhìn cảnh vật lại càng thêm buồn. Đây là một ngôi trường của thời trước để lại, so với trường trên Phú Giáo mà tôi đã dạy hai năm qua thì trường này bề thế hơn, ngăn nắp hơn, sạch sẽ hơn, nhưng cũng chỉ có hơn hai chục phòng học gồm một dãy nằm ngang, mặt nhìn ra đường nối liền với một dãy nằm dọc, tạo thành hình chữ L ngược. Vì không có cư xá riêng như trên Phú Giáo nên trường phải trưng dụng bốn phòng ngoài bìa của dãy nằm ngang làm chỗ ở cho giáo viên, hai phòng cho nữ, hai phòng cho nam, và hầu hết giáo viên đều nội trú. Sân trường chẳng có cây nên nắng lắm, chỉ phía ngoài rào, sát với con đường trải nhựa có trồng một hàng phượng vỹ, nói một hàng chớ thật ra chỉ có ba hay bốn cây mà thôi cũng choán đủ chiều ngang cái sân rồi tuy sân không lớn lắm, và mấy cây phượng vỹ này cũng không lão lắm nên không có tàng cao lớn như cổ thụ để che mát cho hết sân trường.
Đối diện với trường là một nghĩa trang, chắc nghĩa trang này cũ lắm vì tôi thấy có rất nhiều ngôi mộ cũ ở đây, và ít có thân nhân tới viếng nên mấy cây leo mọc tùm lum bít cả lối đi tạo nên một cảnh u ám hoang tàn, vì vậy tôi không dám nhìn kỹ và cũng không dám ra đường một mình lúc trời xế bóng, đứng trong sân trường tôi cũng không dám nhìn qua. Tôi chuyển về đây cùng lúc với Huê, là bạn học cùng một lớp và cùng ra trường một lúc với tôi nên tôi cũng mừng. Hai mẹ con tôi và Huê được chỉ định ở chung phòng với Hà cũng từ Huế vào trường này dạy được hai năm, cả ba chúng tôi đều là người Huế được ở chung một phòng rất tiện. Vì là phòng học nên nhỏ chỉ kê được ba cái giường, đặt ba cái bàn nhỏ, phía gần cửa ra vào có một cái bếp, cạnh bếp là cái lu đựng nước, rồi để lỉnh kỉnh soong nồi cùng vật dụng dùng cho nhà bếp. Phòng bên cạnh phía tay trái từ trong nhìn ra là phòng của cô Điệp, cô Hường, cả hai cô đều từ Sài Gòn đến, và dù lớn tuổi hơn tôi nhưng chưa có gia đình. Phía tay phải là phòng các thầy, phòng khá rộng vì lấy hai phòng làm một, không có vách ngăn nên kê được nhiều chiếc giường cá nhân san sát nhau vì các thầy đều độc thân. Một số nhỏ các thầy thì về nhà vì nhà gần. Hiệu trưởng là anh Ân, hiệu phó chuyên môn là anh Hiệp, hiệu phó ngoại vụ là anh Ẩn, khi tôi đến nhận nhiệm sở không bao lâu thì anh hiệu trưởng Ân đi học lớp tu nghiệp gì đó cho nên anh Ẩn là người số một của trường vì có bằng đảng viên. Thầy cô trong trường phần lớn ở lứa tuổi ngang ngang nhau hay hơn nhau vài ba tuổi. Ngoài anh Hiệp, anh Ẩn, anh Lộc, là những người có gia đình nhưng họ về nhà mỗi ngày vì nhà gần, và chỉ có tôi là có chồng con. Sát hai bên trái và phải của trường là nhà dân, phía sau cũng sát nhà dân. Ngoài cái sân ra thì trường không có được vài thước đất để giáo viên trồng rau, phụ trội thêm cho bữa ăn, vì vậy bữa ăn của giáo viên rất ư là kham khổ.
Nhà trường cũng có cô cấp dưỡng, tức là người nấu bếp cho giáo viên, đó là cô Ngọc, người địa phương và còn trẻ. Hàng ngày, từ thứ hai đến thứ bảy, cô ta đến trường nhận gạo, nhận tiền, đi chợ rồi về lại trường nấu cơm canh cho giáo viên. Tiêu chuẩn mỗi ngày cho một giáo viên là nửa lon gạo và 50 xu tiền thức ăn, vì vậy cho nên quanh năm suốt tháng, hàng ngày mỗi giáo viên chỉ nhận được khoảng một tô cơm nho nhỏ và một tô canh “toàn quốc”, thông thường thì canh rau muống, canh cải, canh rau lang có điểm xuyến thêm vài ba con tép khô nho nhỏ mà lấy muỗng múc hoài không được! Cơm thì bữa sống, bữa chín, bữa khét, vì trường không có nhà bếp, chỉ kê ba cục gạch trong góc của hành lang, trước phòng của cô Điệp mà nấu, cũng không có được củi khô vì trường không có qũy riêng để mua củi. Không giống như lúc tôi dạy trên Phú Giáo, trên đó chung quanh là rừng, dân chúng đốt rừng làm rẫy, họ đốn những cây to, chất thành từng đống, sau vài tháng cây khô, họ đem xe bò chở về thị trấn mà bán với giá rất rẻ, nhờ vậy mà hàng năm anh hiệu trưởng mua vài ba xe bò, chở về tận cư xá phân phát cho giáo viên. Trường ở Phú Giáo vì ít giáo viên, chưa đủ tiêu chuẩn để có cấp dưỡng nên mỗi giáo viên đều có bếp riêng, và có được nhiều củi khô để mà chụm tha hồ. Còn trường này ở gần thành phố, nếu phải mua củi thì đắt lắm, lương giáo viên ba cọc ba đồng, tiền mua thức ăn còn không có thì lấy tiền đâu mà mua củi! Trường lại không cung cấp củi, vì vậy ở đây củi chụm bếp là một vấn đề thật nan giải. Các thầy khi rảnh thì lấy dao, lấy rựa, lấy rìu ra chặt mé mấy cành phượng là đà gần mặt đất, chẻ ra, phơi nắng để làm củi cho cô Ngọc dùng. Nhưng mỗi ngày mỗi nấu, mà mỗi lần mé cành thì không được nhiều nên củi không bao giờ được khô cả, chỉ mới khô dôn dốt là đã lấy chụm rồi, vì vậy mỗi lần cô Ngọc nấu nướng thì khói bay mù mịt. Cô Ngọc ngồi chồm hổm dưới đất, cúi sát cái đầu xuống mà thổi, phùng mang trợn mắt mà thổi nên lúc nào hai con mắt của cô cũng đỏ hoe vì khói. Hàng ngày chỉ có một nồi cơm và một nồi canh rau “toàn quốc” thôi mà làm cô ta mất khá nhiều thời giờ vì nạn củi chưa khô, lại còn nạn gió nữa chứ, vì là bếp lộ thiên nên gió thổi, khi lửa tạt bên này, khi lửa tạt qua bên kia cũng làm cho cô lính quýnh. Ban đầu mấy thầy mé những cành thấp lè tè, hết những cành thấp lè tè thì mé những cành cao hơn một chút, rồi những cành thấp, những cành cao hơn một chút cũng không còn, cho nên mấy thầy phải leo lên trên cao mà chặt, không chặt thì làm sao có củi cho cô Ngọc dùng! Vì lẽ đó mà càng ngày cây càng thiếu mất tàng cây. Sau khi nấu xong, cô Ngọc lấy tô ra sắp hai hàng dài trên chiếc bàn mà chia, rồi mang đến đưa từng người. Thức ăn qúa kham khổ thiếu thốn như vậy nên một số giáo viên có điều kiện, có tiền hay thỉnh thoảng về thăm nhà mang thêm thức ăn, họ nấu nướng thêm, vì vậy hai phòng nữ đều có góc bếp riêng, phòng của nam thì không có góc bếp vì không có góc trống, nên thầy nào muốn kho nấu gì riêng thì đặt ông lò bên góc hành lang mà nấu. Do nhu cầu nấu thức ăn thêm nên giáo viên cũng cần có củi riêng, mua củi ở ngoài thì không có tiền, củi bằng cành phượng vỹ thì khói qúa làm sao mà chụm cho ông lò trong phòng được, với lại mau tàn lắm, thế là mấy nam giáo viên tìm cách, cách gì nhỉ? Thưa, làm tiều phu đốn củi nơi kho chứa bàn ghế! Trường này vì gần thị xã cho nên bàn ghế học sinh đẹp lắm, được đóng bằng gỗ tốt có màu đỏ au, bàn dính liền với ghế hai chỗ ngồi. Trong kho chứa bàn ghế ấy có nhiều bàn ghế còn mới toanh chưa xử dụng, cũng có một số bàn ghế bị long đinh, gãy chân có thể sửa được, và một số ít bị hư hại nặng không thể sửa được. Ban đầu mấy thầy lấy những bàn ghế hư hại nặng để mà “mần thịt”, khi đã hết số bàn ghế bị hư hại nặng này rồi, thì mấy thầy ghé mắt đến những bàn ghế long đinh, gãy gọng có thể sửa được nhưng không có ai muốn sửa. Từ từ rồi bàn ghế hư nặng, bàn ghế long đinh gãy gọng cũng không còn thì mấy thầy đem bàn ghế còn tốt, còn mới ra “mần thịt”. Mỗi lần nhìn thấy mấy thầy đem bàn ghế mới ra phá, tôi tiếc lắm, áy náy lắm, bất nhẫn lắm, và lần đầu tiên tôi có tỏ vẻ sự ái ngại cùng mấy thầy nhưng vì nhu cầu củi, cũng phải để cho mấy thầy mần. Mấy thầy dùng búa đánh mạnh làm cho thân thể, tay chân chiếc bàn lìa ra, sau đó dùng rìu chặt ngắn từng bộ phận, để cho mấy cô dùng rựa chẻ nhỏ. Khi nào gần hết củi thì báo cho nhau biết, chờ đến cuối tuần, học sinh không đi học, các giáo viên địa phương không có mặt, lúc đó mới cùng nhau đi “đốn củi”. Giáo viên có nhà gần trường nhất là thầy Lộc, thầy Bé; Thầy Lộc có tiệm may nên giờ rảnh thì ở nhà phụ việc cho vợ chớ chẳng đến trường. Chỉ có thầy Bé thỉnh thoảng có đến, không biết thầy đến để chuyện trò với các thầy còn ở lại hay là đến để dò xét, nhưng chúng tôi vẫn e dè, đề phòng vì thầy mới ra trường tuổi trẻ hăng say lập công, và nhất là ba của thầy có bằng đảng viên. Vì vậy mỗi lần vào kho “đốn củi”, thì đều có một giáo viên đứng ngoài sân trông chừng, hễ thấy có bóng dáng thầy đằng xa tiến lại thì phải báo cho nhóm “tiều phu” biết để dấu củi cho nhanh, xóa vết cho sạch. Bây giờ nghĩ lại lòng đầy hối hận vì tội “phá hoại” tài sản chung, thế nhưng hoàn cảnh trong lúc đó qúa khổ, qúa thiếu thốn nên đành phải “gặp thời thế, thế thời phải thế”. Vả lại ngôi trường này, tất cả của cải vật chất đều của chế độ Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi tạo dựng ra, chế độ Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa đến “ăn cướp”, chúng tôi là con cháu của chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũng bị Việt Cộng đày đọa, lấy của cải vật chất, lấy nhà cửa ruộng vườn, thì nay chỉ có “phá hoại” chút đỉnh như vậy, nếu đem so sánh “tội” của chúng tôi với tội của Việt Cộng thì chỉ là một giọt nước trong đại dương, một hạt cát trong sa mạc mà thôi.
Lúc dạy ở trường Phú Giáo, tuy xa thị xã Thủ Dầu Một, xa Sài Gòn hơn, trường tuy nhỏ và xấu hơn, có ít lớp hơn, nhưng nơi ăn chốn ở của giáo viên tương đối tốt vì có cư xá. Trước năm 1975 cư xá này dành cho Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa ở nên mỗi căn đều có phòng khách phía trước, phòng ngủ phía trong, phía sau là bếp ngăn nắp; Không có tiền mua thức ăn thì chung quanh cư xá có cây trái như mít, đu đủ, điều để cho giáo viên hái mà chế biến thức ăn, lại có đất trống rất nhiều để giáo viên trồng thêm cây mì, cây mướp. Bản thân tôi còn được bác Tuấn, là phụ huynh học sinh của tôi nhà sát cạnh trường thỉnh thoảng qua cho vài lon đậu phụng, vài lon đậu xanh hay mời qua nhà bác ăn cơm một tháng vài lần, tuy nhà bác cũng không dư giả gì, nhưng là cơm khách nên cũng có chút thịt cá. Rồi anh hiệu trưởng là người rất mê đi săn, cứ cuối tuần là mang súng săn đi vào rừng suốt ngày hay ở lại qua đêm, thỉnh thoảng cũng có mang về thịt rừng, khi thì thịt nai, khi thì thịt heo rừng, khi thì thịt chồn, thịt mễn. Nếu lúc nào được ít thì vợ anh xào nấu rồi gọi hết cô thầy qua nhà anh ăn chung, nếu lúc nào được nhiều thì anh chia cho mỗi cô, mỗi thầy một miếng nhỏ, ai muốn nấu gì thì tùy. Thỉnh thỏang ngoài chợ có bán thịt nai, thịt heo rừng do thợ săn đi săn được với gía rẻ, mua về kho mặn với sả để dành ăn được cả tuần. Vì vậy dù thiếu thốn cũng không đến nỗi. Còn ở trường này không có gì cả ngoài mấy cây phượng vỹ. Bên cạnh phòng cô Điệp có một dãy cây so đũa nhưng thuộc về nhà của dân. Giáo viên có muốn trồng thêm cây mì cây mướp cũng không có đất để trồng. Thời gian đầu mới về trường, thỉnh thoảng vào những buổi chiều tan học, cô Điệp thường ẵm con tôi đi ra ngoài chơi, cô đi khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì về trả con lại cho tôi, và luôn có kèm thêm khi thì vài trái dưa leo, khi vài trái cà, khi vài trái mướp… Tôi hỏi cô ở đâu có vậy, thì cô bảo cô ẵm Kiki vào rẫy chơi, được mấy người quen biếu cho nên cô chia lại cho tôi. Thời gian đó tất cả nhu cầu vật chất đều khan hiếm và qúy gía đối với cán bộ, công nhân viên nhà nước, nhất là cán bộ ngành giáo dục. Vì vậy mỗi lần cô Điệp đi chơi rẫy về đều có đồ cho tôi nên tôi cũng mừng vì để dành ăn cũng được vài ngày. Một ngày kia, thầy Minh cũng ra trường từ Đại học Huế và vào đây dạy toán-lý-hóa được hai năm, bảo với tôi bằng một giọng hết sức bực mình: “Từ nay chị đừng cho cô Điệp ẵm Kiki vào rẫy để xin đồ nữa, mất mặt lắm, mỗi lần gặp họ cô Điệp đều nói “có cô giáo mới đổi về, có con nhỏ, gia đình ở xa, cuộc sống khó khăn cần giúp.” Cô đưa Kiki ra chứng minh nên họ cho cô đồ họ trồng trong rẫy, rồi cô chia lại cho chị đó.” Nghe thầy Minh nói thì tôi mới biết chứ bấy lâu nay tôi đâu có biết gì, cứ tưởng cô Điệp yêu con nít nên chiều rảnh rỗi thì ẵm Kiki đi dạo mà thôi. Từ đó tôi không để cho cô Điệp ẵm con ra khỏi trường nữa.
Cô Điệp là một trong những người bạn mà tôi nhớ nhiều, nhớ mãi khó quên. Cô lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng chưa lập gia đình, nhà cô ở Sài Gòn nhưng cô ít về thăm, một hai tháng mới thấy cô về. Trường không có máy nước, chỉ có một cái giếng rất sâu nhưng nước toàn phèn, xài không được nên giáo viên nột trú phải xin xách nước của nhà phía sau trường về xài. Chủ nhà đó làm rẫy nên họ ít có mặt ở nhà, ngày nào cũng vậy, họ ra đi từ sáng sớm đến chiều mới trở về. Hai vợ chồng này là người tốt bụng, nhưng tánh tình hơi khó khăn, họ chấp nhận cho giáo viên của trường đến xách nước từ giếng của họ nhưng phải từ sáng sớm, đến 7 giờ là họ cất gàu, đóng cửa không cho vào xách nước nữa. Cô Điệp là một phụ nữ đảm đang, lại ít ngủ nên sáng nào cô cũng thức dậy từ 4, 5 giờ sáng nên cô có nhiều thời giờ để qua giếng xách nước, và giờ đó chẳng có ai tranh xách với cô. Thùng to, thau lớn của trường hầu như được cô trưng dụng gần hết để chứa nước. Cô ở chung một phòng với cô Hường, chu vi cũng bằng phòng chúng tôi nhưng chỉ có hai người nên rộng rãi hơn. Phía bên trong kê hai giường nhỏ, già hơn nửa phần ngoài thì cô làm bếp và để nước. Nhìn vào phòng của cô khi nào ta cũng thấy có nhiều thùng, nhiều thau nước đầy đặt san sát vào nhau. Đến bây giờ đã trải qua ba mươi mấy năm rồi, nhưng nhắc đến cô Điệp trong lòng tôi cảm thấy vui vui. Cô rất siêng, cuối tuần rảnh rỗi, cô Điệp thường hay bày ra làm món ăn này món ăn khác bằng những vật liệu xin được. Cô đi ra chợ hồi lâu, trường cũng gần chợ, khi trở về lại trường thì đem về một đống vỏ bưởi, hay một đống sơ mít chín mà cô đã xin mấy bà bán hàng ngoài chợ, cô pha chế rất khéo, vỏ bưởi thì cô làm nem chay, sơ mít thì cô kho với chút ít nước mắm và đường. Mỗi lần thấy cô mang những thứ đó từ chợ về ai cũng nói, thấy cô hì hà hì hục làm ai cũng cười, thế nhưng khi nem chín cô cho thì ai cũng khen ngon, nài thêm vài cái nữa. Tôi thuộc loại kén ăn mà cũng phải hỏi cô cách làm để khi nào có dịp thì làm, rất giản dị. Cô vào vườn phía sau xin vài trái khế chua, một ít lá chuối, một ít lá chầm ruột. Cô cắt vỏ bưởi lấy phần màu trắng đem nấu chín, vớt ra vắt cho ráo nước, rồi đem gĩa nhỏ, xong bỏ một chút màu đỏ, vắt nước khế, nêm muối, tiêu, đường, bột ngọt, nhồi cho đều, đem gói với lá chầm ruột ở trong, lá chuối ở ngoài, cột chùm lại và treo lên nơi khô ráo, khoảng hôm sau thì ăn được. Đó gọi là nem chay. Sơ mít cũng vậy, khi cô kho xong thì nhiều cô thầy đem chén đến xin vì ăn với cơm rất ngon. Đến bây giờ tôi vẫn thích ăn sơ mít chín kho với cá nục. Trường có khoảng trên hai chục giáo viên, có năm nữ, số còn lại là nam. Chỉ có vài thầy ở gần, hoặc ở Sài Gòn, hầu hết đều từ các tỉnh khác đến nên ở trong trường khá đông. Trong đó có thầy Hữu là ở xa nhất, tận ngoài Bắc vào, dạy môn lý-hóa. Thầy là một thanh niên mạnh khỏe, năng nổ và khôn lanh. Mới vào Nam chẳng bao lâu mà thầy đã biết “mánh mung” làm môi giới cho người ta mua bán để nhận tiền huê hồng của cả bên mua lẫn bên bán. Có lẽ cuộc sống ở miền Bắc qúa khắc nghiệt, khó khăn khi Cộng Sản Việt Nam nắm chính quyền suốt mấy chục năm nên dân ngoài đó bắt buộc phải ma lanh như vậy để sống còn! Có ai muốn mua vàng, bán vàng, đến nhờ thầy Hữu. Mấy ghe buôn bán đồ gốm đến “ăn hàng” muốn có đầy đủ hàng sớm, đến tìm thầy; nếu không có thì họ phải chờ lâu, có khi phải cả tuần mới mua được đầy ghe để quay về. Nhờ vậy, trong khi các giáo viên khác sống trong cuộc sống thiếu thốn vì chỉ có đồng lương chết đói hàng tháng, thì thầy Hữu có thêm nhiều tiền. Vì vậy thầy thường đi chợ để mua cá, thịt để ăn thêm. Giờ này khi tôi nhớ để nhắc lại đến thầy thì có lẽ thầy đang ở ngoài Bắc, quê hương của thầy, và đã con đàn cháu đống rồi. Không bao giờ tôi quên hình ảnh thầy Hữu ngồi kho cá, kho thịt. Thầy đặt lò ngay trước phòng nam, lom khom cúi xuống thổi lửa. Kho xong soong cá, soong thịt cũng vất vả lắm vì ngoài trời bốn bề gió lộng cứ làm lửa tạt ra ngoài. Lần nào cũng vậy, kho xong nồi cá, hay nồi thịt, thầy lấy đĩa nhỏ gắp cá, gắp thịt đem đến cho tôi và nói “em đem dĩa này biếu chị, chị ăn đi.” Tôi cũng không hiểu vì sao mà thầy Hữu đã dành cho tôi sự ưu ái đặc biệt như vậy? Bởi vì mấy chục giáo viên trong trường, thầy chẳng thân thiện với ai.
Dù sinh ra và lớn lên ở ngoài miền Bắc, dưới xã hội Cộng Sản, luân lý đạo đức con người bị suy đồi, nhưng thầy Hữu khá đàng hoàng, sống có nề nếp. Thầy rất ghét cô Điệp nên hễ có dịp thì tìm cách phá cô. Khi Kiki biết đi, một hôm cuối tuần, tôi đang ngồi chấm bài trong phòng, Kiki luẩn quẩn một bên thì thầy Hữu bước vào dẫn Kiki ra ngoài. Chốc lát thì nghe tiếng cô Điệp la oai oái phía ngoài. Chúng tôi trong phòng chạy ra xem, thì ra thầy Hữu đang phá cô Điệp để trả thù. Khi thầy Hữu nhìn thấy cô Điệp bước ra khỏi phòng mà chỉ khép cửa chớ không khóa, thầy Hữu vội vàng dẫn Kiki qua phòng cô Điệp và bảo Kiki leo vào ngồi trong mấy thau nước đầy mà cô Điệp đã bỏ công qua giếng xách lúc sáng sớm, làm nước tràn ra ngoài ướt cả nền xi măng, mà trong từng thau nước cũng bị giầy của Kiki mang làm dơ. Cô Điệp đi đâu chốc lát quay trở về phòng thì phát hiện ra thầy Hữu đang đứng ở ngoài hướng dẫn, và Kiki còn ngồi trong cái thau lớn, nước tràn ra ngoài làm đồ đạc trong phòng ướt hết; Nên cô tức giận, còn thầy Hữu vì trả thù được thì cười thỏa mãn. Giữa hai người đã có một sự việc xẩy ra rất tức cười trước khi tôi về đây. Số là có một lần thấy cô Điệp ngồi ngoài sân, thầy Hữu đến một bên và đề nghị với cô Điệp rằng “ cô cởi áo ra cho tôi nom ngực cô một chốc,” làm cô Điệp vừa mắc cỡ vừa tức giận nên mách với anh Hiệp là hiệu phó. Vì vậy thầy Hữu bị phê bình và bắt phải xin lỗi cô Điệp, bạn bè ai cũng biết, nên thấy Hữu và cô Điệp rất ghét nhau. Thầy Minh có đóng một cái cũi bằng gỗ định để nuôi gà, thì tôi đến nên thầy không nuôi gà nữa mà dành cho Kiki ngồi khi tôi bận công việc. Trải vào một manh chiếu nhỏ, và đặt cũi trong hành lang, trước phòng ngủ của chúng tôi, nhưng Kiki đâu có chịu cảnh “cá chậu chim lồng” như vậy, cho nên mỗi lần bị đưa vào cũi ngồi thì nó kêu ré lên, nước mắt thì không có mà tiếng la thì rất lớn làm cho tôi xót ruột; thế nhưng có nhiều lúc cũng phải dằn lòng mà nhốt nó trong cũi! Vấn đề tắm giặt cho con cũng thật là khó khăn, nhưng cũng may vì tôi được người chủ cái giếng có cảm tình và thông cảm nên tôi được ưu tiên, muốn xách nước lúc nào cũng được miễn là có người ở nhà mở cửa và đưa gàu. Tôi cần nước để giặt tã cho con mỗi ngày, mà phòng thì chật, chỉ đặt được một cái lu để nấu nướng, vì vậy tôi qua xách nước mỗi ngày. Cứ chờ trời xế chiều, ông bà chủ đánh xe bò từ rẫy về nhà là tôi qua xin xách nước. Đối với tôi họ luôn vui vẻ và sẵn sàng đưa gàu cho, chứ không nhăn nhăn nhó nhó như đối với các cô thầy khác muốn xin xách nước ngoài giờ ấn định. Lúc đó con trai tôi chỉ bú sữa mẹ nên tôi không mất công hầm cháo, nghiền cháo.
Anh Hiệp chia cho tôi dạy các lớp học buổi chiều. Ca sáng tan học chừng một tiếng đồng hồ thì ca chiều vào. Hà dạy buổi sáng nên khi tôi lên lớp thì Hà giữ Kiki dùm. Cũng vì lo ẵm Kiki nên Hà đã không lo buổi cơm trưa được nên thầy Minh thường bị đói bụng mà chưa có cơm ăn; Vì vậy mặc dù thầy cũng thương Kiki và thông cảm cho tôi, nhưng cứ như vậy hoài khiến thầy đâm ra bực bội rầy la cô Hà. Hai người yêu thương nhau và có ý định lập gia đình cùng nhau nên hai người ăn cơm chung. Thấy cô Hà bị thầy Minh la, lòng tôi áy náy lắm, và không nhờ Hà giữ nữa. Cứ chờ tiếng trống báo hiệu giờ vào lớp là tôi ẵm con lại văn phòng nhờ anh Hiệp giữ. Tôi nói với anh là anh có bổn phận phải giữ Kiki khi tôi lên lớp vì anh là hiệu phó chuyên môn. Thật ra bí qúa thì nói vậy thôi, chứ đâu phải đó là bổn phận của anh. Kể ra cũng tôi nghiệp cho anh Hiệp, anh là đàn ông, ở nhà chưa chắc anh phải ẵm con, giữ con cho vợ suốt cả buổi như vậy, mà tại trường anh đã phải ẵm con và giữ con cho tôi suốt cả buổi. Ngay này qua tháng nọ cũng làm cho anh cực khổ, mất tự do cho nên một hôm anh chia thời khóa biểu cho các thầy cô trong trường để giữ Kiki khi tôi lên lớp. Có bạn chấp nhận, có bạn chối từ, riêng tôi cũng không chấp nhận, tôi bảo các bạn của tôi không có trách nhiệm giữ Kiki, nếu bạn nào thương trẻ, thông cảm cho tôi, khi có thời gian rảnh, muốn giữ Kiki thì tôi rất mang ơn và cảm xúc, chứ không thể ép buộc như vậy được. Riêng anh Hiệp là hiệu phó có trách nhiệm tạo điều kiện tốt cho tôi công tác nên phải giúp tôi. Do đó anh Hiệp dù muốn dù không cũng phải tiếp tục giữ Kiki suốt mấy tiếng đồng hồ khi tôi lên lớp mỗi ngày khiến anh rất bực mình, và “giận cá chém thớt.” Trong một buổi họp hội đồng giáo viên, anh Hiệp đã phê bình chồng tôi rằng “Tôi chưa thấy người chồng nào vô trách nhiệm, vô lương tâm như chồng của cô. Cô công tác xa nhà lại bận con trẻ chưa đầy tuổi, thật khó khăn vô cùng, vậy mà chồng cô không bao giờ đến thăm vợ thăm con bao giờ!” Tôi vội chống đối ngay “Chồng tôi vốn là một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nên đã bị nhà nước xã hội chủ nghĩa bắt đi tù “cải tạo”, nay cho về quê hương, nhưng phải chịu sự quản thúc nghiêm ngặt của chính quyền địa phương, không có quyền công dân, không được phép đi ra khỏi làng dù chỉ vài trăm mét, như vậy làm sao mà lên tận nơi đây để thăm vợ thăm con được. Thân “cá chậu chim lồng” mà!. Vậy là huề cả làng, chỉ một lần đó thôi, và sau này anh không nói nữa mà “cam phận” giữ con giúp tôi thôi. Tôi thật lòng biết ơn anh Hiệp vô cùng, bây giờ nếu anh Hiệp sống bất cứ nơi đâu, cho tôi xin nói lên lời cám ơn chân thành của tôi.
Tôi nhớ lại khoảng hai năm đầu đi dạy, cuộc sống thật nặng nề, căng thẳng, tinh thần thì bị khủng bố, vật chất thì thiếu thốn, người nào cũng dè dặt lời ăn tiếng nói, cảnh giác mọi người để tự bảo vệ mình, suốt ngày cứ nghĩ đến miếng ăn. Cộng Sản qúa thủ đoạn, họ dùng cách này để cai trị dân miền Nam, đến hè, giáo viên không được về nhà ngay mà phải tập trung để học chính trị. Chúng tôi thuộc ty Giáo Dục Sông Bé nên phải về trường Trịnh Hoài Đức ở Búng để học gần hai tháng. Giáo viên ăn, ở, ngủ, nghỉ, học ngay trong trường, đông qúa nên rất xô bồ, phức tạp, nhất là vấn đề tắm rửa, giáo viên Nam thì không nói làm gì, nhưng giáo viên nữ thì phiền phức vô cùng. Tập trung lại một lần qúa đông người, cho dù trường Trịnh Hoài Đức có cơ sở vật chất rộng rãi, nhiều phòng nhưng làm sao có phòng tắm, nên bọn tổ chức lấy mấy tấm cót tre, thứ mà nông dân dùng để làm bồ nhốt vịt, nối lại với nhau, vây thành một vòng rộng lộ thiên bên một góc trường, làm vài cái vòi nước nữa, thế là có một phòng tắm “ngàn sao” rộng rãi. Cứ mỗi buổi chiều, sau khi tan học, các cô các bà cần tắm vì khí hậu qúa nóng bức, họ ôm quần áo đến phòng tắm “ngàn sao” ấy để tắm. Họ tắm tập thể, mấy chục con người trần truồng đứng tắm lao nhao với nhau; tôi rất ngại ngùng, nham nhờ qúa làm tôi liên tưởng đến bầy yêu nhền nhện trong phim Tây Du Ký. Lại thêm hai phía góc trường có hai cái chòi gác rất cao, và luôn có “bộ đội cáo Hồ” đứng trên đó phóng đôi mắt cú vọ nhìn “bầy yêu nữ” tắm trần truồng không chớp mắt. Tôi không bao giờ tắm vào giờ đó, cứ chờ sau khi ăn cơm xong, các cô các bà rủ nhau đi dạo, hay nằm nghỉ đấu láo với nhau, hoặc nam nữ hẹn hò, thì tôi âm thầm ôm quần áo xuống đó tắm một mình trong bóng đêm. Tắm giờ này rất tiện và không có ai cả, nhưng vì ban đêm nên trời hơi lạnh, thỉnh thoảng gió thổi lại càng lạnh thêm, vì vậy chỉ tắm qua loa thôi chứ tắm lâu sợ bị cảm lạnh. Tôi nghĩ nhà nước mới này muốn hành hạ dân Nam Việt Nam thôi chứ học được gì đâu. Sáng học, chiều học, nhưng nghe tai này ra tai kia mà thôi, chẳng giúp ích gì cho tư tưởng hay kiến thức của mình chút xíu nào cả; với lại mấy tên giảng viên chỉ giáo điều, giảng dạy như vẹt, họ học được gì thì nói ra như thế ấy, khi học viên có hỏi những câu ngoài bài thì họ trả lời không được. Có một hôm giảng viên nói về tầng lớp bóc lột, tôi hỏi:
- Thưa giảng viên, trong bài này giảng viên lên án nặng nề tầng lớp địa chủ vì họ thẳng tay bóc lột nông dân tá điền, tội ác khó dung, nay tôi xin đưa ra một ví dụ mà cũng có xẩy ra trong đời sống. Có một tá điền kia bị bệnh rất nặng, cần phải đưa lên tỉnh chữa trị kịp thời mới mong qua khỏi. Nhưng họ qúa nghèo, không có tiền, không có gì qúy gía để bán cả; người vợ tá điền đến nhà chủ điền xin hỏi vay, cuối mùa trả bằng lúa. Nhờ có số tiền đó nên người tá điền được đưa lên bệnh viện tỉnh chữa trị kịp thời, và được lành bệnh. Nhờ được lành bịnh nên mới lo được việc đồng áng tốt, cuối mùa thu hoạch được khá. Sau khi trả nợ xong, họ còn dư ra một số lúa để ăn khỏi lo chết đói. Vậy xin hỏi gia đình người tá điền đó coi người chủ điền kia là vị ân nhân hay kẻ bóc lột?
Có lẽ câu hỏi này không có trong bài mà ông ta đã học, nên ông ta không trả lời mà nói:
- Câu hỏi của cô tôi ghi nhận, để tôi nghiên cứu lại rồi trả lời sau.
Và không có câu trả lời cho đến hết khóa học!
Vừa dạy vừa nuôi con trong hoàn cảnh xa nhà, thiếu thốn như vậy cũng không làm cho tôi rớt nước mắt, chỉ rớt nước mắt vì nhớ đến đứa con gái đầu lòng đang ở với ông bà ngoại tận ngoài Huế. Mỗi lần nhớ đến con, lòng dạ xót xa vô cùng, ao ước được làm cánh chim bay về thăm con! Chỉ chờ đến hè để về gặp mặt con, nỗi nhớ con quay quắt làm cho tôi không bao giờ vui được; Cũng may có đứa con trai bé bỏng bên cạnh cũng làm cho tôi ăn ủi phần nào. Mỗi lần đến giờ lên lớp, ẵm con qua văn phòng cho anh Hiệp giữ, lòng tôi buồn và áy náy lắm; Đứng giảng bài cho học sinh từ cuối dãy, nghe tiếng la thét của con tôi sốt ruột vô cùng, tâm trí cứ nghĩ về con thì làm sao mà dạy cho tốt được! Khi Kiki la khóc nhiều, anh Hiệp dỗ hoài không được thì Hà dù có bận rộn đến đâu cũng phải chạy qua ẵm nó dỗ dành. Đứng trong lớp nhìn ra thấy Hà ẵm kiki, đầu đội cái nón lá cũ đi tới đi lui ngoài sân mà thương qúa, hình ảnh này đã khắc sâu vào tâm khảm không làm sao tôi quên! Khi kiki biết đứng, anh Lộc cho kiki một chiếc xe con nít có bốn bánh nhỏ, cứ bận việc thì để nó đứng trong xe. Được vài tháng thì nó biết đi chập chững, hễ để nó trong xe thì nó cứ bước đi không chịu đứng một chỗ, lê chiếc xe dọc theo hành lang và bắt đầu phá phách. Tánh nó thật hiếu động, trường không có phòng ăn hay nhà bếp gì cả nên những đồ dùng dành cho “ẩm thực” đều để trên một cái kệ đặt trong hành lang, phía trước văn phòng và phòng ngủ của nam giáo viên. Mỗi lần đặt con đứng trong chiếc xe nhỏ ấy mà bận làm gì đó, lơ là một chút là nó cứ từng bước lê chiếc xe đến cái kệ để tô, chén đĩa, và tiếng loảng choảng…loảng choảng vang lên. Mọi người chạy ra thì cũng đã có vài ba cái tô, cái chén bị bể nằm ngổn ngang trên nền xi măng, tại cu cậu với tay hất xuống đó ạ. Cứ vậy khiến tô chén càng ngày càng thiếu, không đủ dùng nên thủ qũy trường phải xuất tiền ra mua hoài khiến anh Hiệp phải than “từ ngày có thằng nhóc này, cứ tốn tiền mua tô chén.” Không những nó hất tô chén ngoài hành lang mà còn vào văn phòng hiệu trưởng để hất mấy cái đĩa, các tách trà bể nữa khiến anh Hiệp càng nhăn mặt “Cái thằng này phá qúa!”
Trái với thằng con hiếu động này của tôi, thì thằng con cô Ngọc cấp dưỡng đằm thắm hơn, mặc dù lớn hơn kiki một tuổi, nhưng mẹ nó đặt nó ngồi đâu thì nó cứ ngồi yên một chỗ, không khóc, không rời chiếc chiếu. Thế là trong khung cảnh nhỏ hẹp và khó khăn ấy, con tôi bú sữa mẹ mà lớn dần, và chập chững những bước đi đầu tai đây. Khi cu cậu biết đi rồi thì cu cậu còn “phá phách” hơn trước. Có một lần cô Ngọc đang đứng chia cơm, và nồi canh “toàn quốc” còn đang để trên mấy ông táo, thì từ trong phòng, chúng tôi nghe một tiếng “tõm” của vật gì bị ném vào nước, chúng tôi chạy ùa ra, nhìn thấy kiki đang đứng bên cạnh nồi canh, tay cầm hòn đá nhỏ ném thêm vào, à, thì cu cậu đang nghịch phá! Tuy vậy nồi canh vẫn được cô Ngọc đem ra chia đều cho giáo viên như mọi khi, chỉ khác là tô canh hôm đó nước lại ít đi vì phải vất bỏ phần nước dưới đáy nồi kẻo cát. Những bước đi đầu tiên của con tôi chưa vững mà con tôi cứ đi từ phòng này qua phòng khác để phá. Một cuối tuần nọ tôi bận giặt áo quần và tã cho con ở cuối hành lang, trải mảnh chiếu nhỏ để con ngồi bên cạnh với mấy trái banh nhỏ bằng ni lông, chỉ quên nhìn con chút xíu thì nó đã mất tiêu, tôi đứng dậy định đi tìm thì nghe tiếng la oai oái của mấy thầy “Trời đất ơi, kiki làm mấy xấp bài đã chấm bay tùm lum dưới đất, loạn xạ với nhau rồi, kiki là chúa phá phách!” Nhìn qua cửa sổ thì thấy kiki đang đứng trong phòng của các thầy, bài chấm nằm la liệt, ngổn ngang trên nền nhà. Trong lúc mấy thầy ra sân, không ai ở trong phòng thì kiki lúc thúc đi vào, thấy trên những chiếc bàn thấp có để những xấp bài các thầy đã chấm xong, nó đến từng bàn kéo xuống vất đầy nền nhà, bài làm bay tung tóe trộn lẫn môn này với môn kia làm các thầy phải mất công lựa ra từng môn riêng. Khi kiki biết đi vững vàng một chút thì cu cậu cứ đi lung tung. Lúc đó thầy Minh và cô Hà đã làm đám cưới rồi nên hai người dọn ra ở trong căn phòng tận dãy bên kia. Từ phòng của tôi qua phòng của Hà cũng khá xa, vì một phòng nằm ở đầu dãy ngang, một phòng nằm ở đầu dãy dọc. Kiki thích đi từ phòng tôi đến phòng Hà; mỗi lần thấy cu cậu xuất hiện một mình thì Hà phải ẵm nó trả về lại cho tôi kẻo sợ tôi lo lắng.
Có một ngày kia cu cậu đã làm cho mọi người lo sợ đến xanh mặt, chỉ lơ là không để mắt đến một chút thôi là thấy cu cậu mất tiêu. Người này hỏi người kia, không ai nhìn thấy cả, khiến tất cả hoảng hốt đi tìm kiếm từng phòng, từng góc mà không thấy. Trong một góc của sân trường, có một cái giếng rất sâu, tuy miệng giếng xây lên cao, nhưng tìm kỹ vẫn không thấy cu cậu đâu nên ai cũng sợ cu cậu bị lọt xuống giếng. Thầy Minh và thầy Hữu cột giây leo xuống giếng tìm vẫn không thấy. Sát bên cạnh trường là nhà của dì Hai, căn nhà tranh tuy nhỏ nhưng cũng đủ rộng cho dì Hai và hai đứa con gái ở. Trước nhà là một cái sân khá lớn so với căn nhà, cái sân nhà dì Hai sát liền với cái của sân trường và không có rào ngăn cách. Dì Hai trồng một số hoa và cây ăn trái, cành lá xum xuê. Tìm một hồi lâu vẫn chưa thấy con làm tôi vô cùng lo lắng, cứ nghĩ đến nạn bắt cóc trẻ con dù lúc ấy chưa hề nghe đến việc này. Tôi đi qua sân rậm rạp của dì Hai để tìm thêm một lần nữa, lần này tôi đi tìm rất kỹ, vạch từng bụi cây ra tìm, và nhìn kìa, kiki đang ngồi trong cái khạp da bò đặt sát gốc một bụi hoa trắng. Khạp da bò này dì Hai đựng nước để tưới cây, vì khạp thấp nên nó ngồi thò phần trên ra, nước chỉ đủ để ướt phần dưới. Tôi mừng đến nước mắt đầy mặt, con tôi thật là nghịch ngợm, nó lủi vào đây, thấy cái khạp đựng nước, vì thích nước nó leo vào ngồi. Lần đầu tôi qua đây tìm vì không vạch lá để xem xét từng bụi cây nên không thấy. Thật là một phen hú vía.
Trong xã hội chủ nghĩa, cáo Hồ bắt chước chủ là Mao Trạch Đông định “gía trị những người trí thức không bằng một cục phân”, nên đồng lương trả cho ngành giáo dục ở mức thấp nhất, nếu đem ra tiêu xài hơi đầy đủ một chút thì chỉ đủ cho một tuần, cho nên giáo viên nghèo lắm. Vật gía ngoài chợ thì đắt đỏ, chúng tôi không thể mua rau qủa ăn thêm nên thầy Minh đi xin hột đu đủ và hột bầu để ươm. Phía sau trường thì sát hàng rào của nhà dân nên không có một chút đất nào để trồng, cho nên thầy Minh phải trồng trong góc sân, trước phòng của giáo viên ở. Mấy cây đu đủ đã lên được khoảng một gang tay, còn dây bầu cũng bắt đầu có nụ. Thầy Minh mừng lắm, tất cả các cô thầy khác cũng vui theo, mọi người nhìn chúng lớn từng ngày, chờ đợi có trái. Vậy mà một hôm thầy Minh phát hiện một số nụ bầu bị hái vất trên sân, và vài cây đu đủ bị héo vì bị nhổ gốc làm thầy vừa bực mình vừa tiếc, nhất định phải tìm ra thủ phạm; và thủ phạm chính là kiki, nó đi lẩn vẩn quanh khu thầy Minh trồng, và đã ra tay khi nhìn thấy mấy nụ bầu là đà gần mặt đất và những cây đu đủ con. Mặc dầu tiếc lắm nhưng thầy Minh không nỡ la rầy kiki, sợ nó ghét rồi không cho ẵm bồng!
Thời gian này, chồng tôi đã được trở về sum họp với gia đình vì “học tập tốt, cải tạo tốt”, nhưng thật ra chỉ rời nhà tù nhỏ để đến nhà tù lớn mà thôi vì vẫn bị mất tự do và chưa có quyền công dân, tức là không được đi đâu và không thể làm việc gì cả! Những dịp về thăm, tận mắt thấy chồng tuy sống tại quê cha đất tổ bên cạnh gia đình nhưng thật lạc lõng cô đơn, ngay cả bà con cũng không dám qua lại thân tình vì sợ bị liên lụy, lòng tôi buồn lắm, thương cảm cho chồng vì sa cơ thất thế mà bị người ta coi rẻ. Nên tôi cố gắng hễ có cơ hội là tôi về quê thăm chồng, để an ủi chồng, cho chồng lấy được niềm tin mà sống, dù việc đi lại rất là vất vả vì nạn xe “quốc doanh”. Chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ chỉ biết dùng “luật rừng”, luật thay đổi tùy tiện, xử dụng tùy tiện theo không gian và thời gian, tùy nhân vật lãnh đạo, không cần thông qua quốc hội. Mấy năm đầu thì theo luật con ăn theo mẹ, dù bố không phải là công nhân viên nhà nước, con vẫn được mua lương thực và nhu yếu phẩm theo gía phân phối nếu mẹ là công nhân viên. Bởi nhà nước nắm tất cả các ngành nên mọi lãnh vực đều là quốc doanh, nếu mua lương thực và nhu yếu phẩm theo gía phân phối thì rất rẻ so với gía bên ngoài. Chỉ cần lấy một hay hai món đồ mua được và đem ra ngoài bán là lấy lại đủ số tiền đã đóng, vì vậy cán bộ công nhân viên cứ trông đợi hàng tháng được mua lương thực và nhu yếu phẩm. Ngày chia lương thực và nhu yếu phẩm đối với chúng tôi là một ngày rất vui. Mấy năm dạy trên Phú Giáo, con tôi vẫn được mua dù đang sống ngoài Huế với ông bà ngoại, vậy mà khi chuyển qua trường này thì bị cắt, lý do vì cha không phải là cán bộ công nhân viên. Tôi làm đơn xin mua lương thực cho con theo gía phân phối như một số người khác đã làm. Nộp đơn cho công đoàn nhà trường đã lâu vẫn chưa thấy có sự trả lời; Một hôm nhân trong một buổi họp hội đồng giáo viên, tôi đem vấn đề đơn xin này ra hỏi thầy Chánh, trưởng công đoàn nhà trường, thì thầy Chánh trả lời là đơn của tôi thầy đã nộp cho hội tế bần địa phương, và họ bảo rằng để họ phát gạo cho những hộ dân nghèo trong khu vực, nếu còn gạo thì sẽ giải quyết đơn xin của tôi. Câu trả lời của thầy Chánh đã làm tổn thương đến tự ái của tôi, tôi nói: “Tôi là một cô giáo, là một cán bộ giáo dục, vì phải công tác xa nhà, lại có con mọn, thiếu lương thực nên mới phải làm đơn xin được mua gạo theo gía phân phối, chứ tôi không phải là ăn xin đến xin gạo của nhà nước.” Mấy người trong công đoàn nhà trường bất mãn câu nói của tôi, họ bảo “con cô không ở trong tiêu chuẩn bố mẹ đều là công nhân viên nên khó giải quyết.” Tôi vội tiếp lời: “Nếu nhà nước thông qua công đoàn trường không thể giải quyết được thì tự tôi giải quyết lương thực cho con tôi; thời gian sau này nếu tôi có làm gì cũng xin ban giám hiệu trường thông cảm.”
Rồi từ lần họp này, tôi dạy đôn giờ, cách dạy này là sai nguyên tắc sư phạm nhưng tôi mặc kệ cứ làm vì hình ảnh người chồng sa cơ đang bị quản thúc tại quê hương, sống cô đơn, lạc lõng cứ hiện ra trong tâm khảm của tôi khiến lòng tôi luôn luôn thương cảm và muốn được gần gũi, an ủi để cho sự thiệt thòi của chồng được bù đắp phần nào. Cứ tuần thứ ba của mỗi tháng tôi xin các cô các thầy có giờ dạy trước hay sau giờ của tôi cùng lớp hoán đổi để tôi dạy luôn giờ của họ, rồi trong tuần thứ tư thì họ lại lấy giờ của tôi để dạy bù. Như vậy tuy tôi không lên lớp vào tuần thứ tư của tháng nhưng tôi vẫn dạy kịp theo chương trình, không mất giờ nào cả. Chắc chắn là ban giám hiệu chẳng thích đâu nhưng vẫn im lặng không phàn nàn gì tôi cả, bởi vì tôi đã nói trước rồi mà, trường không giải quyết được thì tôi tự giải quyết. Và như vậy cứ tháng nào tôi cũng về quê thăm chồng, lấy cớ về quê lấy thêm gạo chứ thật ra tôi không thiếu gạo bởi vì con tôi bú sữa mẹ nhiều hơn là ăn cháo nghiền, còn tôi thì ăn cơm rất ít vì không có thức ăn. Mùa cà chua chín, ngoài chợ bán rẻ lắm, tôi thường mua cả một rổ nhỏ, đem về rửa sạch, cắt mỏng, bỏ chút đường cát, vậy là ăn cà chua thế cơm. Mỗi tuần ăn cũng mấy lần. Ty lương thực bán cho giáo viên hai phần gạo, một phần bo bo, ý nhà nước muốn chúng tôi ăn độn bo bo. Không phải riêng ngành giáo dục mà toàn miền Nam đều ăn độn bo bo, có nhà không đủ bo bo mà ăn cho no nữa. Mỗi tháng lãnh bo bo về, các cô các thầy đưa cho anh Tín, là bảo vệ nhà trường, nhà có mở lò làm bánh mì nho nhỏ; mỗi buổi sáng con của anh đem đến trường phát cho mỗi cô thầy một ổ bánh mì nho nhỏ để ăn sáng. Cũng nhờ lòng tốt của anh Tín mà chúng tôi có bánh mì nóng ăn thay bo bo. Xin cám ơn anh Tín!
Từ nơi tôi dạy về đến quê chồng, đoạn đường tuy có ngắn hơn vài chục cây số nhưng cũng gian nan vất vả lắm. Tay ẵm con, tay xách giỏ đi bộ ra bến xe, lên xe lô nhỏ ra bến xe Thủ Dầu Một, sắp hàng mua vé xe đò về Bình Triệu, đi bộ một đoạn đường để lên xe buýt đi Sài Gòn, rồi leo lên xe buýt khác đi xa cảng miền Tây ngoài Phú Lâm-Bình Chánh, bến xe xa cảng miền Tây này lúc nào cũng lộn xộn, đông đúc và bát nháo, tìm ra cửa bán vé đi Trà Vinh, phải sắp hàng ít nhất cũng vài ba tiếng đồng hồ. Cầm được cái vé trên tay thì mồ hôi mẹ mồ hôi con tuôn ra như tắm, tóc tai rối tung, áo quần xốc xếch trông thật thảm hại. Nhà nước dành tất cả quyền hành trong mọi lãnh vực nên cái gì cũng “quốc doanh”, khiến người dân phải chịu nhiều khốn khổ! Ngoài số ít vé bán công khai trong ô bán vé, thì nhân viên bán vé tuôn một số vé ra bán chợ đen với giá gấp hai, gấp ba, những người buôn bán có tiền mới mua nổi. Ngoài ra tài xế, lơ xe còn đón thêm khách riêng dọc đường để có thêm tiền nên số hành khách xe nào cũng tăng lên rất nhiều so với số ghế, vì vậy hành khách bị nhét như cá mòi trong hộp, không nhúc nhích được.
Trên tuyến đường đi cũng như tuyến đường về, thuế vụ lập trạm kiểm soát hàng hóa dày đặc; cứ chạy một đoạn đường hơn một chục cây số thì có một trạm, xe đò phải dừng lại cho họ kiểm soát. Xã hội mới này chỉ xài “luật rừng” nên mạnh địa phương nào thì địa phương ấy hành động. Xã này, huyện này thấy xã kia, huyện kia có đặt trạm thuế vụ, hàng ngày đã tịch thu biết bao nhiêu hàng hóa của bạn hàng chất thành đống; tối đến chia nhau nên đứa thuế vụ nào cũng giầu, ngu chi xã mình, huyện mình không lập một trạm để hốt tiền. Thế là dân chúng thấy mọc lên một trạm thuế vụ. Ban đầu trên tuyến đường từ Sài Gòn về Trà Vinh chỉ có vài trạm, rồi mỗi lần đi lại thấy có thêm, có thêm. Thời buổi “gạo châu củi quế” mà người dân thì nghèo qua mấy lần đổi tiền, không có tiền để mua đường cát, bột ngọt dù đây chỉ là nhu yếu phẩm cần dùng hàng ngày. Hàng ngày đi chợ, họ chỉ dám mua một gói bột ngọt nhỏ bằng ngón tay, được mấy bà bán gói lại cẩn thận, trong đó chứa khoảng hơn hai mươi cánh bột ngọt là cùng để về nêm nồi canh “toàn quốc”, còn đường cát trắng thì mấy ai nghĩ đến. Thế mà mỗi lần xe đến trạm phải ngừng lại cho lũ thuế vụ khám xét thì hành khách trên xe phải xuống hết để họ lên xe “thi hành” nhiệm vụ, họ dùng những thanh sắt nhỏ đầu nhọn thọc mạnh vào bất cứ chỗ nào họ nghi ngờ để tìm hàng hóa. Mấy bà bạn đường xa thường bắt bồ với tài xế, lơ xe để họ dấu hàng của mình giùm, họ nhét hàng trong chỗ dựa của ghế ngồi vì chỗ này có hai lớp, hoặc nhét hàng dưới mấy cái kẹt phía dưới chỗ ngồi. Nhưng làm sao qua được những cặp mắt “cú vọ” thuế vụ xã hội chủ nghĩa. Lũ thuế vụ đâm thọc không thương tiếc, vì vậy khi phát hiện ra hàng dấu, họ lôi ra thì những bao bì bị lủng tùm lum, hàng đựng trong bao chảy dài theo bước chân của những tay thuế vụ, mỗi khi nhìn thấy đường cát, bột ngọt, gạo, các loại đậu vung vãi từ trên xe cho đến trạm thuế vụ; lòng tôi vừa tiếc, vừa tức. Trong khi người dân không dám mua vài trăm gram đường cát hay bột ngọt để ăn thì ở đây qúa phí phạm, phí phạm đến dã man, bởi vì những thứ đó là của người ta, mồ hôi nước mắt của người ta chứ đâu phải của chúng! Bởi vì nhà nước “chiếm” hết quyền hành nên bất cứ thứ gì muốn di chuyển từ nơi này đến nơi khác mà không có giấy phép thì đều là phạm pháp, bị tịch thu toàn bộ, mà khổ chủ còn bị phạt tiền nữa, số tiền phạt nhiều hay ít tùy theo số lượng và gía trị của số hàng bị bắt cũng như tùy lòng “nhân đạo” của bọn thuế vụ nữa. Cứ đến trạm thuế vụ là chúng ta nghe không biết bao nhiêu lời lạy lục, năn nỉ của mấy bà bạn hàng và nước mắt của họ tuôn rơi, nhưng dễ dầu gì bọn thuế vụ tha cho! “Thượng bất chánh, hạ tắc loạn” hay “rau nào sâu ấy” mà! Nhà nước Cộng Sản Việt Nam là một nhà nước như thế nào thì đào tạo ra một tầng lớp tay chân bộ hạ như vậy, “thuế vụ” là lũ ăn cướp ngày có giấy phép. Muốn vào chân thuế vụ, trước hết phải quen biết với những “vị” tai to mặt lớn, sau nữa thì phải có vài lượng vàng lá để biết ơn đối với kẻ “ban ơn”, do vậy mà trăm tên thuế vụ đều như một, tịch thu hàng hóa, phạt tiền thẳng tay. Lương tâm đi vắng!
Bà mợ của chồng thuộc gia đình “liệt sĩ” dù “liệt sĩ” bất đắc dĩ! Số là cậu Bảy của chồng tôi là một nông dân chân chất, ruộng vườn, nhà cửa nằm sâu trong vùng “xôi đậu”; cậu có tay “sát” cá nên Việt Cộng địa phương cưỡng bức cậu vào khu, chỉ để ngày ngày lội ruộng lội sông bắt tôm cá về cho chúng ăn. Mỗi lần vợ vào thăm thì cậu bày tỏ lòng tha thiết xin gia đình làm cách nào đưa cậu rời nơi ấy càng sớm càng tốt. Chồng tôi có một người bạn là sĩ quan an ninh địa phương này nên đã tìm gặp bạn để bàn bạc tìm cách đưa cậu về chợ, nhưng chưa thực hiện thì cậu Bảy đã trở thành “liệt sĩ”. Bởi vì nơi cậu phục vụ là một cái xưởng chế tạo chất nổ để dùng mà khủng bố dân lành, ngày ấy chẳng may sơ ý làm nổ, bị chết tùm lum, trong đó có cậu Bẩy. Mợ Bảy đi buôn bán thịt heo từ chợ quận ra chợ thành, mợ lấy thịt heo quấn, độn trong bụng gỉa làm bà bầu, ban đầu thì bầu nhỏ, sau bầu lớn dần, cho đến cái bầu sắp đến ngày “đẻ”, khá lớn thì mợ Bảy “được” thuế vụ chiếu cố, vậy là cả vốn lẫn lời đều đi đong, thật là “dã tràng xe cát biển Đông”! Từ đó mợ Bẩy mới cam lòng mần ruộng trở lại, chẳng thà chịu tay lấm chân bùn mà khỏi lo, khỏi hồi hộp muốn rớt tim ra ngoài mỗi khi qua trạm thuế vụ! Mỗi lần tôi đến thăm, mợ Bảy đem cán bộ to cán bộ nhỏ của Việt Cộng ra nguyền rủa, mặc dầu người em thứ năm của mợ là sĩ quan cấp tá của bộ đội Việt Cộng tập kết từ Bắc trở về.
Nhắc đến mợ Bảy tôi không khỏi không nhắc đến một chuyện, chuyện về cái dốt nát của bọn y sĩ, bác sĩ Việt Cộng đã làm cho mợ Bảy phải mang tật suốt đời. Mợ Bảy chỉ bị đau ruột dư thôi, trước năm 1975 các bác sĩ miền Nam mổ rất nhanh, rất dễ, cũng tỷ như mổ ruột gà thôi. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, tất cả mọi ngành đều do cán bộ của họ cầm đầu, ngành y tế cũng vậy, giám đốc bệnh viện, trưởng khoa, trưởng phòng đều do bác sĩ hữu nghị nắm quyền. Bác sĩ hữu nghị tức là những y công, y tá có công trận, được nhà nước phong cho chức “bác sĩ” mỗi khi có đoàn y tế của Trung Cộng hay của Liên Xô qua thăm hữu nghị, nên gọi là “bác sĩ hữu nghị”, họ không học qua trường lớp huấn luyện nào về y khoa cả; Trong thời gian Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt đem quân đánh miền Nam, những người này nhờ biết băng bó, chích kim mà được cho vào ngành Y; Vào rừng phục vụ bộ đội bị thương nhẹ (bị thương nặng thì đã bị chôn sống rồi), một thời gian năm năm, bảy năm thì được hưởng “đặc ân đặc lợi” ấy. Họ không thấy cái dốt của mình để mà học hỏi, vì vậy khi họ trở thành cấp trên của những bác sĩ miền Nam thì họ “ra oai” dữ lắm. Tất cả bệnh nhân đưa vào bệnh viện, họ đều dành làm vai chính trong việc chữa trị, vì vậy có biết bao nhiêu người là nạn nhân của “cái dốt” của họ, trong đó có mợ Bảy. Họ mổ làm sao mà ruột non, ruột gìa của mợ Bảy chảy dồn về phía hông bên phải, phình to như cái bầu tám tháng của đàn bà chửa trông rất kỳ, và mợ phải mang như vậy suốt đời.
Bây giờ tôi xin được “nhiều chuyện” thêm một tí vì đã nhắc đến “bác sĩ hữu nghị”. Khoảng năm 1986, mẹ tôi bị một cục bướu nhỏ ở khuỷu chân phía sau đầu gối của chân bên phải, thỉnh thoảng đau nhức nên cần mổ, vì tôi biết về “bác sĩ hữu nghị” nên đã tìm đến một vị bác sĩ miền Nam làm việc lâu năm tại bệnh viện Nguyễn Văn Học ở Bà Chiểu chuyên về giải phẫu, năn nỉ với ông ta, qùa biếu hậu hĩnh. Cuối cùng ông ta phải lập một bệnh án giả cho mẹ tôi để chứng tỏ mẹ tôi là thân chủ lâu năm của ông ta để ông ta lấy cớ mà dành đứng ra mổ. Vì thương mẹ nên chúng tôi để mẹ được nằm phòng có tiền, vì vậy phòng chỉ có hai giường khá sạch sẽ. Hàng ngày tôi nấu cháo thịt bò, cháo sườn heo, cháo gà, cháo cá mang vào cho mẹ, lần nào tôi cũng nấu nhiều, múc cho mẹ một tô nhỏ đủ ăn thì tôi đem số cháo còn lại đến một phòng hầu hết là dân nghèo ở xa lại. Vì không có tiền để mua những loại thuốc ngoại tốt cho việc chữa trị, cứ uống ba thứ thuốc nội nên họ nằm dầm dề suốt tháng, thân nhân đến nuôi bệnh cũng bữa đói bữa no vì không đủ tiền mua cơm! Trông họ thảm thương vô cùng, tôi san sẻ cho mỗi người bệnh một chén cháo nhỏ cũng làm cho họ cảm động! Phòng có mười cái giường thôi mà bệnh nhân gần hai chục, hai người một giường. Ngày kia tôi mang cháo đến, thấy trên mặt của hai cái giường kia có nhiều con giòi trắng tròn quay đang bò lúc nhúc, tôi cứ nghĩ là từ mấy cái kẹt trong phòng bò lên nên bảo mấy người thân nhân nuôi bệnh hãy quét cho sạch, moi móc cho kỹ. Họ làm một hồi, không moi được con giòi nào trong góc cả, tìm tòi một hồi mới phát hiện từ mấy chỗ băng bột của vài bệnh nhân đang nằm trên giường, người thì từ chỗ băng bột nơi tay, kẻ thì từ chỗ băng bột nơi chân; không biết phía trong có nhiều không mà thấy giòi bò ra có hàng. Tôi vội chạy lên phòng bác sĩ trưởng khoa, yêu cầu ông ta đến gấp, tôi nghĩ sau khi nghe xong thì ông ta ba chân bốn cẳng chạy đi liền. Nào ngờ ông ta không nhúc nhích, cứ ngồi yên trên cái ghế nệm bọc da và nói với tôi bằng một giọng “Bắc kỳ 75” sắc như dao, chua như giấm: “chỉ mấy con giòi thôi mà cô làm gì quan trọng thế, phòng đó chưa đến ngày thay băng.” Than ôi! Tai hại thay vì cái dốt của “bác sĩ hữu nghị”. Cũng cái phòng ấy, có một bệnh nhân là cô gái khoảng hai mươi lăm tuổi, nằm một mình trên chiếc giường kê sát góc phòng, vì trong một phút trầm cảm, khổ đau chuyện gì đó, ban đêm cô ra đường tàu lửa ngồi. Bị tàu lửa cán nát cả tay chân, đem vào bệnh viện Nguyễn Văn Học, và bác sĩ hữu nghị cưa hết cả hai tay lẫn hai chân, nhưng hai cái tay, hai cái chân vẫn còn dài. Chỉ mấy ngày sau hai tay, hai chân bị cưa thêm một khúc, rồi thêm một khúc, lại thêm một khúc, chỉ trong hai tuần cô ta chỉ còn lại cái đầu và cái mình, tròn vo, tôi hỏi thì được biết cứ “bác sĩ hữu nghị” cưa xong, vài ngày sau xương dài ra, đâm thủng làm thịt nơi ấy lại thúi, phải cưa lại và đã cưa bốn lần. Nhờ cha mẹ có chút tiền và thương con nên cứ mua máu để tiếp sức cho cô, cuối cùng cô cũng bỏ trần gian đau khổ này. Mẹ tôi nằm hai tuần tại bệnh viện, được y tá y công săn sóc tận tình nhờ tôi rộng rãi với họ. Cứ vài ba ngày tôi lại mua lên một quày chuối chín mang lên biếu họ, bởi vì tôi cũng hiểu y tá, y công trong xã hội này nhận đồng lương hàng tháng cũng khiêm nhường như ngành giáo dục, trong số y tá ấy, tôi khá thân với chị Liên. Khi tôi tỏ ý thắc mắc tại sao những bác sĩ trước năm 1975 giỏi như vậy mà cứ để cho bác sĩ hữu nghị “dốt đặc cán mai” làm chủ tất cả mọi việc để cho bệnh nhân phải chịu sự đau đớn thì chị cho biết các “bác sĩ hữu nghị” cứ dành làm vai chánh chữa trị cho các bệnh nhân nhập viện là để họ học hỏi. Xã hội chủ nghĩa Việt Nam dùng người “hồng hơn chuyện”, nên bản thân họ không có một chút kiến thức nào về ngành y cả thì nay họ cần phải học, thực tập ngay trên thân thể bệnh nhân dễ “tiếp thu” hơn là học ở trường, họ nói như vậy! Cho nên các bác sĩ trước năm 1975 dù có giỏi đến đâu thì các “bác sĩ hữu nghị” cũng chỉ cho phụ việc mà thôi. Mỗi lần nhớ đến cô gái trẻ bị cưa tay cưa chân đến bốn lần trong vòng hai tuần nhập viện làm cho tôi muốn dựng tóc gáy.
Bây giờ xin trở lại chuyện thuế vụ, bởi vì nhân viên thuế vụ sẽ tịch thu bất cứ thứ gì họ nhìn thấy, dù chỉ là cây kim sợi chỉ, nên những người ít vốn, không “bắt bồ” được với tài xế, lơ xe, thì họ đi buôn theo kiểu cò con. Họ dấu hàng trong mấy túi xách gọn gàng, mang theo bên mình, có thể xách theo mỗi khi đi qua trạm, thế nhưng họ đi tuyến đường ấy mỗi ngày, vài ba ngày, hay mỗi tuần nên dưới những cặp mắt cú vọ của nhân viên thuế vụ thì họ khó mà thoát được vì nhân viên thuế vụ “ngửi” ra mùi đi buôn của họ! Vì vậy mỗi khi xe đến trạm thuế vụ, hành khách phải xuống xe hết để nhân viên thuế vụ lên khám, thì những người đi buôn “cò con” này “tìm mặt gởi vàng”, họ năn nỉ những người hành khách có tướng không phải đi buôn để gửi túi hàng. Gởi cho người này một túi, gởi cho người kia một túi, hành khách đi bộ qua trạm, cách xa vài chục bước để chờ xe, khi xe đã khám xong, trạm thuế vụ cho phép chạy thì rề lại đám đông đang đứng chờ để hành khách lên xe. Lúc lên xe, những người “bị” gởi túi xách hoàn lại cho chủ; Vì việc “gởi hàng qua trạm” mà tạo ra một lớp người “lật lọng”, khi nhận túi hàng người ta gởi, số người này lủi đi đâu mất, họ không lên lại xe nữa, và người gởi túi hàng phải rơi nước mắt, than trời than đất vì đã gặp phải kẻ gian, và chuyện như vậy xẩy ra mãi trên những chuyến xe tôi đi. Còn tôi, trăm lần như một, lần đi nào cũng có người gởi một, hai túi hàng, tôi xách qua trạm tỉnh queo và chưa bao giờ bị nghi ngờ để nhân viên thuế vụ gọi lui khám xét, khi lên xe lại, tôi vội trả cho người đã gởi. Có vài trường hợp người “bị” gởi cũng bị nhân viên thuế vụ gọi lui để xét, thỉnh thoảng phát hiện trong túi xách là thuốc tây gỉa, hay là thuốc phiện thì người mang túi xách bị bắt ngay, dù “oan ơi ông địa” cũng không làm sao cải chính được vì chẳng ai tin; Vì khi bị “động” như vậy thì chủ của mấy cái túi xách đã lủi trốn đâu mất rồi. Tôi có một bà thím họ bị ngồi tù hai năm vì trường hợp như vậy, xách túi giùm cho người ta qua trạm, bị chận xét, mới biết trong túi có xì ke, thật là “tình ngay lý gian”, nói không ai tin. Vì bà thím họ ngồi tù oan nên sau này tôi nhất định không giúp cho ai để “mang đồ qua trạm” cả, sợ “tai bay vạ gió” thì khổ cho thân mà thêm mang nhục nữa!
Nói đến bạn hàng và thuế vụ, tôi nhớ lại khoảng hè năm 1978, tôi phải đi chấm thi tốt nghiệp phổ thông (tương đương tú tài toàn phần) tại thị xã Thủ Dầu Một (tỉnh Bình Dương), vì là cuối niên học nên tôi về thăm quê chồng chờ đến ngày thi mới lên lại Sài Gòn để đi Thủ Dầu Một, đón xe đò Trà Vinh - Sài Gòn từ tờ mờ sáng, nhưng khi xe đến Cai Lậy thì trời đã xế chiều vì xe phải ngừng lại nhiều lần nơi mấy trạm thuế vụ và vì là xe đò miền Tây nên mỗi lần nhân viên thuế vụ khám rất lâu. Khi đến trạm thuế vụ Cai Lậy, hành khách xuống xe, đứng dồn lại một góc, chờ lên xe lại nhưng chờ hoài chờ mãi vẫn chưa được “lệnh” lên xe, trời càng ngày càng tối. Ai cũng thắc mắc không biết chuyện gì đã xẩy ra, đang bàn tán với nhau thì một cán bộ xã, huyện gì đó đến bắt buộc chúng tôi, là hành khách đi xe ấy, phải vào ngồi sắp hàng trong sân của trụ sở, ngồi bệt xuống đất theo hàng và không được nói chuyện với nhau. Ngồi trong sân mà chúng tôi nghe rõ tiếng la hét, tiếng roi đánh vun vút rồi tiếng khóc van xin; Tất cả chúng tôi sợ lắm vì không biết chuyện gì đang xãy ra để có người bị tra tấn dã man như vậy. Dò hỏi thì được biết rằng bọn thuế vụ huyện Cai Lậy đang tra khảo lơ xe vì đã có người báo, cũng như đã khám xét thấy trên xe có dấu hơn một tạ gạo lậu; Đó là một điều cấm, dù vài ba lít cũng bị tội, huống hồ đây hơn một tạ! Họ bắt chúng tôi ngồi như vậy không biết đến mấy tiếng đồng hồ mà vẫn chưa cho xe đi, nhìn đồng hồ đeo tay thấy đã khuya, tôi thật nóng lòng vì 7 giờ sáng mai tôi phải có mặt tại trung tâm thi. Vài vị lớn tuổi có lên tiếng là phải để cho hành khách được tự do, ai muốn đón xe khác để đi Sài Gòn thì tùy ý không có quyền bắt hành khách phải ngồi như những kẻ tội phạm như vậy, nhưng bọn “quan quyền” Cai Lậy kia không chấp nhận. Tôi lấy sự vụ lệnh đi chấm thi đưa cho bọn họ và yêu cầu để cho tôi ra đón xe về Sài Gòn cho kịp, nếu họ cứ giữ tôi lại như vậy thì họ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm thi của Ty giáo dục Sông Bé. Nghe tôi nói cứng, họ mới để cho tôi và hai người đàn ông nữa được “tự do”. Khi ra đến đường quốc lộ thì đã qúa nửa đêm, rất khó có xe về Sài Gòn, ba người chúng tôi cứ kiên nhẫn đứng chờ, may mắn có một chiếc xe tải từ xa chạy lại, chúng tôi đón và được tài xế cho lên xe, với điều kiện là mỗi người phải trả một số tiền, tôi quên là bao nhiêu, nhưng so với gía chính thức thì gấp hai, ba lần. Hai người đàn ông leo lên phía sau thùng xe, còn tôi được ngồi trên cabin cùng với tài xế và phụ xế, khi xe chạy một đoạn đường tôi mới phát hiện xe tải này chở heo vì nghe tiếng heo kêu ụt ịt và ngửi mùi hôi nồng nặc. Ở trong một xã hội đảng trị như xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người ta nghĩ ra nhiều mánh mung gian trá để sống còn, như chiếc xe tải chở heo này chẳng hạn, phía sau thùng xe, họ đóng thêm một tầng rộng khoảng 1/3 thùng xe, cao hơn cũng khoảng 1/3 để chở người lấy thêm tiền, phía dưới thì để heo, họ là tài xế, là phụ xế cho hợp tác xã nhà nước, cũng như là công nhân viên thôi, hàng tháng nhận đồng lương chết đói, nên họ bắt buộc phải tìm cách kiếm tiền thêm bằng cách này. Tôi được ngồi trên cabin mà còn khó chịu bởi mùi hôi của heo huống hồ gì những người phía sau kia, hơn mười người phải ngồi trong một chu vi qúa hẹp, tai phải nghe tiếng kêu ụt ịt của heo, mũi phải ngửi mùi hôi của heo, thật là tội nghiệp, nhưng sống trong một xã hội qúa hắc ám như vậy, thì khó khăn nào, gian khổ nào người dân cũng phải cắn răng chịu đựng. Anh tài xế hỏi chuyện, biết tôi là một cô giáo và đang đi coi thi, chấm thi, nên cả tài xế và phụ xế nói họ không lấy tiền của tôi vì họ biết ngành giáo dục chỉ nhận đồng lương qúa ít, thấp nhất trong cái xã hội này bởi vì “gía trị của người trí thức không bằng gía trị một cục phân”! Xe đến xa cảng miền Tây, thì trời đã tờ mờ sáng. Tài xế ngưng xe lại, bảo những người ngồi phía sau xuống vì nếu đi vào thành phố, khi xét, thấy xe có chở người như vậy thì họ sẽ bị phạt rất nặng, riêng tôi được theo xe đến Bà Chiểu vì nhà bà con tôi định ghé lại ở vùng này mà xe họ cũng sẽ đi ngang qua đây. Khi rời xe xuống đường thì trời vẫn còn nhiều bóng tối, đứng nhìn cảnh vật hai bên để định hướng mà đi nhưng tôi không biết phải đi hướng nào vì lạ lắm, trong đầu cứ nghĩ “bóng tối là đồng lõa với tội ác”, nên trong lòng lo sợ vô cùng, cảnh vật chìm trong bóng tối, đường vắng tanh càng làm tôi lo sợ thêm. Bỗng có bóng dáng một người đàn ông từ xa chầm chậm tiến về phía tôi đang đứng, có lẽ ông ta đang đếm từng bước một của những bước chân âm thầm nên tiến tới rất lâu, nhìn có vẻ như một nhà thơ đang đi tìm nguồn thơ. Khi đến gần, tôi lấy can đảm đón ông ta lại hỏi đường về nhà bà con thì ông ta bảo để ông ta đưa tôi đến tận nơi vì nhà bà con của tôi nằm trong một con hẻm khó tìm lắm, thế là tôi bậm môi đi theo. Lúc di tản năm 1975 gia đình tôi vào được Sài Gòn và đến nhà này ở tạm một thời gian ngắn, chúng tôi có đi chợ Bà Chiểu nhưng chỉ biết đi phía đường Lê Quang Liêm, bây giờ xe tải bỏ tôi xuống mặt sau phía Lăng Ông nên tôi thấy lạ. Đi song song với một người đàn ông chỉ hơn tôi năm, ba tuổi, xa lạ, trên con đường vắng, và bóng đêm còn bao phủ tôi cũng sợ lắm, trong đầu đã có sự dự tính nếu ông ta có ý xấu thì tôi sẽ vừa la vừa chạy liền, nhưng may mắn, ông ta đàng hoàng lắm, tự coi tôi như một đứa em gái, khuyên tôi cái này cái nọ nghe cũng hữu lý. Qua câu chuyện, tôi nhận thấy ông này là người có trình độ nhưng đang bất cần đời. Cuối cùng cũng tìm ra được nhà bà con, đứng nhìn tôi vào nhà rồi ông ta mới từ gĩa mà đi, đây là một người tốt! Chỉ nằm nghỉ được một chút, chưa kịp ngủ thì phải trở dậy để đi Bình Dương cho kịp. Đầu nhức như búa bổ vì thiếu ngủ và lòng cứ băn khoăn không biết người lơ xe kia bị tra khảo, đánh đập đến lúc nào mới ngừng và số hành khách kia bị ngồi như vậy đến bao giờ mới được đi tiếp! Chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi nhưng tôi nhớ như in, không bao giờ quên dù một chi tiết nhỏ.
Vấn đề di chuyển thật là khó khăn, cực khổ như vậy mà tháng nào tôi cũng cố gắng về thăm chồng, đến nỗi ba chồng nghĩ rằng tôi bị đuổi dạy nên cứ hỏi: ”nói thật cho ba biết là con bị người ta đuổi việc rồi phải không, sao mà con về hoài như vậy được?” Mỗi lần về quê phải đi nhiều chuyến, xe phải ngừng lại ở nhiều trạm thuế vụ, và nhân viên thuế vụ làm việc rất có “trách nhiệm nhiệt tình” nên mỗi lần xét rất lâu. Ra xa cảng miền Tây sắp hàng mua vé cũng trần ai gian khổ, vài ba tiếng đồng hồ là chuyện thường, nên khi xe đến nơi thì trời sắp tối, tôi còn phải đi bộ trên con lộ đất để vào làng gần hai cây số nữa, rồi rẽ lối, len lỏi dò từng bước chân thấp chân cao trên các bờ ruộng để vào vườn một người quen, men ra tận mép vườn sát bờ sông, cố sức gọi thật lớn qua bên kia bờ sông , gọi nhiều lần thì bên đó mới nghe để cho người bơi xuồng qua rước. Lần nào cũng vậy, khi qua được sông để vào nhà cậu Hai thì trời đã tối lắm, ở miệt vườn cây cối xum xuê thì trời lại càng tối hơn. Bà ngoại với cậu mợ lúc nào cũng muốn giữ tôi ngủ đêm ở đó, sáng mai hãy qua nhà chồng vì đường khó đi lắm, bà ngoại dụ khị: “chị Tám đang nhồi bột nếp nấu chè, con ở lại ăn, sáng mai hãy xuống dưới.” Tôi đặt tên cho chè bà ngoại là chè “lòn hòn” vì chỉ có bột nếp vắt từng cục nhỏ lòn hòn thả vào nồi, rồi bỏ đường chảy, nước cốt dừa, gừng đâm nhỏ vào. Vậy mà thời buổi ấy ăn thật là ngon. Ở quê sẵn nếp, sẵn đường, sẵn dừa khô, nhưng lâu lâu mới dám nấu một nồi như vậy để ăn. Bà ngoại và cậu mợ Hai cầm lại thế nào tôi cũng không chịu, cứ nhất định phải qua nhà chồng ngay. Cầm giữ mãi không được, mợ Hai phải ra phía sau nhà, bắt hai tay lên miệng làm “loa” mà gọi: “Ba Tài ơi! Lên rước vợ về”, cũng phải lấy hết sức mà gọi ba bốn lần, khi nghe bên kia có tiếng trả lời: “nghe rồi” thì mới hết gọi. Tôi bày bánh trái mang về biếu ngoại và cậu mợ ra dĩa, mời ngoại và cậu mợ chưa kịp ăn thì chồng tôi đã xuất hiện, trên tay cầm bó đuốc bằng lá dửa khô, kể làm sao sự vui mừng của cả hai chúng tôi khi thấy mặt nhau. Cuối vườn nhà cậu mợ Hai nối cuối vườn nhà chồng bằng một đám dừa nước khá dài và rậm rạp, không có đường đi nên từ đây muốn qua nhà chồng cũng thật là trần ai gian khổ. Trao con cho chồng ẵm, trao túi xách cho chồng mang, tôi chỉ đi hai tay không thôi mà thật là vất vả, khi thì tay vịn lá dừa nước mà đi lần từng bước trên cây tre đặt trên mấy thân cây dừa nước, lúc thì bước lên cái bắp dừa nước mà chuyền từ cây này qua cây kia, có lúc phải đu như khỉ đu dây, phải thật cẩn thận vì trợt chân té xuống thì áo quần lấm lem như đi cầy về vì phía trước toàn là bùn và nước. Đến được mảnh vườn nhà chồng rồi cũng phải lủi trong bụi, trong đám mía mà đi vì vườn này đã bỏ hoang từ lâu, sau 1975 mới trở về nhưng gia đình chồng tôi thì neo đơn, vườn thì rộng lại thiếu sự săn sóc bao nhiêu năm dài. Việt Cộng địa phương lấy làm sào huyệt trước năm 1975 nên có lần máy bay Mỹ đến dội bom, vì vậy những liếp vườn bị lỗ hoang lỗ hốc thành ao, cây hoang mọc um sùm. Vì vậy cha chồng phát hoang được tới đâu thì trồng mía tới đó, sau này khi chồng tôi từ tù “cải tạo” trở về, phụ giúp một tay, để dựng lại vườn, trồng dừa trở lại nhưng coi bộ khó mà trở thành như xưa lắm!
Mấy ngày tôi có mặt ở nhà thì không khí trong gia đình thật vui, mấy đứa em chồng cứ quấn quýt một bên nghe tôi kể chuyện, nhất là chồng tôi được an ủi thật nhiều. Khi tôi trở về lại Sài Gòn để lên chỗ dạy thì chồng tôi chỉ đưa tôi ra đến con đường đầu làng rồi trở về vì không dám rời khỏi làng như lời Việt Cộng địa phương đã ra lệnh, tôi ôm con một mình lủi thủi ra lộ cái đứng đón xe. Vì xe đò quốc doanh nên một số chủ xe không muốn bỏ tiền ra sửa chữa mỗi khi xe hư nên dần dần số xe nằm ụ càng nhiều và số xe chạy được càng ít, vì vậy vấn đề đứng đón xe dọc đường cũng rất khó khăn và mất thời giờ, phải đứng chờ nửa ngày mới đón được xe là chuyện thường vì tài xế và lơ xe chỉ muốn dành đón bạn hàng để được nhiều tiền hơn. Có một lần tôi đứng đón xe từ sáng sớm qua tới xế chiều mà vẫn không có xe nào ngừng lại cho tôi lên, trong lòng qúa sốt ruột vì chiều mai tôi có giờ dạy, một chiếc xe đò Trà Vinh-Sài Gòn từ phía cầu Mỹ Huệ chạy trờ tới và ngừng lại nơi tôi đang đứng. Chờ cho mấy bà bạn hàng mang gánh xuống xong, tôi vội leo lên, hai chân mới đứng trên tầng gỗ để vào cửa, một tay ẵm con, tay lia nắm thanh sắt, chưa kịp chui vào xe thì lơ xe đuổi tôi xuống, tôi năn nỉ để cho tôi được lên xe, ngồi ở đâu cũng được, vì tôi cần đi Sài Gòn trong ngày này, mặc dầu tôi hết lời năn nỉ, lơ xe vẫn không chịu cho tôi vào phía trong xe, y đứng chận ngay cửa và miệng không ngớt đuổi tôi xuống. Vì cần đi nên tôi làm mặt lì không chịu xuống, tay vẫn nắm chặt thanh sắt. Tên lơ xe đánh mạnh tay lên trần xe làm hiệu, chiếc xe rồ máy lao tới, thì cũng là lúc lơ xe dùng hai tay bấu mạnh vào tay tôi đang nắm thanh sắt, bẻ mấy ngón tay của tôi rồi xô mạnh tôi xuống. Vì bất ngờ nên tôi bị rớt xuống mặt đường thật mạnh, thật nhanh, rồi bị lăn xuống vùng trũng phía dưới, lăn hai, ba vòng, tôi cố ôm con trước bụng, co hai chân lên để che chở cho con, túi xách bị rớt ra, đồ đựng bên trong vung vãi ra ngoài. Khi hết bị lăn, chân tay tôi đau lắm nhưng tôi cố gắng đứng dậy, việc đầu tiên là xem xét coi con có bị trầy trụa gì không, khi thấy con không sao cả; tôi mới lo đi nhặt đồ, vừa nhặt vừa khóc, hai hàng nước mắt cứ chẩy ra ào ào, rớt xuống áo con làm ướt cả vạt. Từ đó tôi rất ghét lơ xe, cho đến bây giờ tôi vẫn còn ác cảm đối với giới này, đúng ra tôi không được “vơ đũa cả nắm” như vậy, nhưng mà lần bị tên lơ xe xô tôi té đó đã để lại trong lòng tôi một sự tủi nhục vô biên mà mỗi lần nhớ đến là nước mắt tôi lại rơi.
Một lần khác cũng đáng nhớ, sau mấy ngày về thăm, sáng hôm ấy là ngày tôi phải đi, nhưng thay vì tiễn mẹ con tôi ra đầu làng để tôi ra lộ đón xe như mọi khi thì tôi theo ghe chở mía của chồng lên chợ Mai Phốp. Nhà chồng có trồng mía đường và mía hồng ngự, mía đường thì ép đường để bán, mía hồng ngự thì bán cây. Vì đám mía hồng ngự đã tới lứa nên ba chồng muốn chặt, và chở lên chợ Mai Phốp bán cho được gía. Trên ghe chất đầy những bó mía, ba chồng đứng chèo phía sau, chồng ngồi bơi dầm phía trước, còn tôi ẵm con ngồi trên đỉnh của đống mía cao nghệu, trời thì qúa nắng, ghe đi thì lâu, tôi chịu hết nổi nên lấy cái khăn lông của con cột làm mái che, nhìn trông thật giống vợ con của tay thương hồ chứ chẳng ra cô giáo tí nào! Khi ghe đến chợ thì trời vừa tối, sau khi vác mía lên chất đống trong góc chợ, chồng tôi lấy mùng ra treo trước hàng hiên của một căn tiệm, chúng tôi chui vào ngủ “bụi đời” đêm ấy. Trời vừa hừng sáng thì người ta đã nhóm chợ khá đông, tôi không nỡ ra lộ đón xe mà đi, ở lại trông coi đống mía để chồng vác mía bán cho người ta, vài tiếng đồng hồ là bán xong. Tôi định đón xe đi Sài Gòn vì lên xe tại đây cũng đỡ mất một đoạn đường dài, nhưng chồng lại năn nỉ tôi lên ghe quay trở về lại nhà cùng chồng vì chồng có mua cả một kí lô thịt bò, muốn cho tôi được cùng ăn ngon với gia đình, không cưỡng lại lời năn nỉ của chồng, tôi lên ghe quay trở về nhà, rồi lại ra cửa Mỹ Huệ đứng đón xe trần ai gian khổ như mọi khi vậy.
Cứ phải về quê thăm chồng như vậy qúa bất tiện nên tôi phải “dùng kế” để được “trên” chấp thuận cho tôi thuyên chuyển, kế đó là liều mạng, tuần nào không về quê thì tôi ẵm con lên ty “ăn vạ”, mỗi lần thấy tôi là chú bảy Thiều xuống bếp nhờ cấp dưỡng nấu thêm một xuất cơm nữa để đãi tôi. Chú bảy là người ngoài Bắc, đang làm hiệu trưởng một trường cấp ba, sau khi chiếm miền Nam, bộ giáo dục đưa chú vào làm phó ty giáo dục Sông Bé, chú là một người tốt, ăn nói nhỏ nhẹ, biết thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi nên thương tôi như con cháu. Vào ty, tôi để con tôi ngồi trên ghế xa lông bằng da ở phòng khách, có vài lần con đái ỉa trên ghế, chú bảy phải giúp một tay mang ghế ra ngoài vòi nước để rửa.
Khoảng thời gian ấy không hiểu vì sao trẻ con trong Nam bị bệnh ghẻ chốc qúa nhiều, con tôi cũng bị, tay chân đầy mụt ghẻ, trên đầu đầy chốc lở, mỗi lần ẵm con ra bệnh viện Bình Dương khám thì chỉ được phát cho một chai nhỏ nước màu xanh, xức vào xanh lè, chỉ khô mặt ngoài, phía trong vẫn lở; vết lở cứ ăn lan, nhức nhối nên con tôi cứ khóc mè nheo. Có người bày hái lá me nấu nước mà tắm, vậy là mấy thầy đi tìm hái lá me, ngày nào cũng nấu tắm cho con nhưng không thấy bớt, có một lần tôi đang ngồi tắm cho con bằng nước lá me, con tôi la khóc dữ dội vì đau thì chú bảy Thiều vào thăm trường; Tận mắt chú nhìn thấy con tôi đang khóc la nên chú xót xa bảo tôi “thôi, con đừng tắm cho cháu bằng lá me nữa, làm mụt ghẻ của nó xót nên nó khóc la đấy”. Nạn dịch ghẻ của trẻ con kéo dài không dứt, vậy mà chỉ một lần xức bài thuốc “dân gian” do một bà cụ mù bày cho mà bệnh chốc đầu ghẻ lở của con tôi lành hoàn toàn. Số là một lần về quê thăm chồng, vào một buổi trưa trời nắng muốn nổ con mắt, đứng trong nhà nhìn ra ngoài đường, tôi thấy một bà gìa mù đang chống gậy lần bước mà đi, tôi vội mời “bà ơi, vào đây ngồi nghỉ một lát, uống tách nước trà rồi đi”, bà nhận lời vào nhà, ngồi uống nước nhưng tai nghe trẻ em khóc, bà hỏi “cháu đau thế nào mà cứ khóc hoài vậy?” Tôi trả lời là cháu bị chốc đầu ghẻ lở, bôi thuốc xanh hoài mà không bớt, thì bà mới bày cho “toa thuốc” vô cùng đơn giản, chẳng mất tiền mua vì tất cả trong nhà đã có sẵn: mật gà, phèn chua, tiêu sọ, dầu dừa. Tôi chỉ bôi cho con có một lần mà bệnh chốc ghẻ của con lành hẳn, sau này tôi bày cho cô giáo dạy cùng trường có con bị chốc ghẻ, họ làm theo cũng chỉ có một lần là lành luôn. Tôi tự cho bà già là bà tiên hiện ra giúp kẻ ngay lành!
Một hôm có một buổi họp khoáng đại giữa Ty giáo dục và hội đồng giáo viên trường tôi; Tôi vội đem con qua gởi nhà dì Hai để dự buổi họp đó, mục đích là để nói khích cho ty chấp thuận đơn xin thuyên chuyển của tôi. Buổi họp có rất nhiều nhân vật lãnh đạo trên ty và ban giám hiệu trường, chú Thiều cũng có mặt. Tôi xin phát biểu như sau:”Tôi luôn luôn tin tưởng vào sự sáng suốt của những người lãnh đạo của xã hội này, họ luôn luôn tạo điều kiện tốt cho nhân viên của họ để nhân viên của họ công tác tốt, vì nghĩ như vậy nên năm nào tôi cũng có nộp đơn xin thuyên chuyển về công tác tại quê chồng, nhưng những anh chị lớn tuổi nói rằng trong xã hội này, muốn được như ý mình thì “nhất thế, nhì tiền” mới được, năm đầu tiên tôi cãi lại họ, tôi không tin như vậy; Đến năm thứ hai, đơn tôi không được xét, làm cho tôi suy nghĩ băn khoăn, không biết là tôi nghĩ đúng hay các anh chị nói đúng. Nhưng năm nay là năm thứ ba tôi nộp đơn, nếu tôi không được thuyên chuyển thì tôi sẽ khẳng định rằng tôi nghĩ sai, và lời các anh chị là đúng”.
Tôi nói xong thì chú bảy Thiều lên tiếng:”chú hứa sẽ bằng mọi cách, chú sẽ làm cho con được thuyên chuyển công tác về quê chồng”. Và niên học 1980, tôi dạy tại trường cấp III của quê chồng........(Còn tiếp)
Connecticut tháng 5 – 2011
Nguyễn Anh
( Trở về đầu trang )
|