gà trống nuôi con
Tháng mười hai năm Mậu Tuất, 1958 trời trở lạnh nhiều hơn những năm trước. Cái lạnh thấm vào da thịt truyền đến tận xương tủy. Ban ngày gió mùa Đông Bắc thổi xuyên qua những cánh đồng mông quạnh, mang theo hơi nước đưa vào thành phố làng mạc làm cho mùa Đông càng thêm phần giá buốt. Ngoài đường phố ít có người đi lại, hình như người ta muốn trốn cái lạnh bằng cách quây quần với nhau bên trong cái tổ ấm của gia đình. Những người có việc phải đi ra ngoài lại khoát lên thân mình nhiều lớp quần áo. Đây cũng là dịp để cho người ta mang trang phục mùa Đông ra sử dụng. Các loại quần áo may bằng vải dầy như nỉ, ka-ki cùng với áo len, áo ‘bành-tô’ làm cho con người trở nên mập mạp, nặng nề. Người thích ăn diện như các ông thì đóng vào bộ đồ ‘vét’, còn các cô các bà thì quấn thêm những chiếc khăn quàng cổ đủ loại, đủ màu. Thực ra những bộ quần áo và cách trang phục đặc biệt ấy đã vô tình tô điểm thêm cho thành phố một gương mặt mới, sặc sỡ và lịch sự hơn ngày thường.
Bà Sáu Quân gom hết rác, lá cây trước sân nhà lại thành một đống to cạnh con đường đất chạy ngang trước nhà. Dù trời lạnh đến độ nào đi nữa, mỗi sáng bà đều dậy sớm quét sân. Bà thường nói: “Làm việc là vận động cơ thể giống như tập thể dục sẽ giúp cho người thêm chút hơi ấm, chống lại cái lạnh.” Bà trở vô nhà tìm cái hộp quẹt. Sáng nay bà không hốt rác như mọi hôm mà cho vào đó một mồi lửa. Sau một vài phút nghi ngút khói, đống rác cháy bừng lên như một nhóm lửa trại. Một vài người đi chợ ngang qua, dừng lại bên đống lửa. Họ ngồi xung quanh, đưa tay ra hơ nóng rồi áp vào má. Có một bà quen biết lên tiếng:
- Chị Sáu khoẻ không? Năm nay trời lạnh quá phải không chị?
Bà Sáu ngồi xuống bên cạnh bà bạn trả lời:
- Dạ khoẻ. Lạnh quá!
Được một lúc, bà bạn nói:
- Tôi thích cái đống lửa của chị lắm nhưng tiếc quá, lại phải đi.
- Chị cứ ngồi đây sưởi ấm thêm một chút nữa, còn sớm mà.
- Tôi đi chợ rồi về còn làm việc khác, thôi xin phép chị.
- Dạ, chào chị.
Chờ cho đống lửa tàn, bà Sáu Quân tạt lên một ca nước đoạn đi vào trong nhà. Ông Sáu và mấy người con đã thức dậy. Người thì chuẩn bị đi làm còn kẻ thì lo đi học. Bà dọn phần ăn sáng lên bàn cho chồng, còn mấy đứa con thì tự động vào trong bếp tìm kiếm.
Thằng Tám ngồi ở phía sau nhà bếp tay cầm một ca nước, đánh răng. Nó đổ nước lên tay rửa mặt một cách vội vàng, hít hà một tiếng vì cảm nhận được cái giá buốt của ca nước buổi sáng, nó hỏi lớn:
- Má ơi, sáng nay ăn cái gì?
- Cơm chiên. Má đã chiên rồi còn trên chảo đó, lấy chén bới ăn đi. Mà khoan đã, con đi cất bàn chải răng thay quần áo sẵn để đi học rồi hãy ăn.
- Dạ
Nó cắm bàn chải răng vô cái lon sữa không đóng bên hông tủ đựng đồ ăn rồi chạy đi thay quần áo. Mấy phút sau nó đã có mặt trong nhà bếp, mặc quần đùi đen áo sơ-mi trắng cụt tay bỏ trong quần. Nó học lớp nhì – sau này gọi là lớp bốn, trường công nên phải tuân theo nội quy đồng phục. Trời lạnh mà chẳng thấy nó kêu than một tiếng. Má nó quay lại nhìn và nói:
- Con mặc thêm “áo lạnh’ không thôi bệnh đó.
- Dạ khỏi, con không lạnh.
Nó cúi xuống gãi chân mấy cái, để lại vài đường móng tay trắng mốc trên đó.
- Trời ơi, chân con mốc thích hết trơn mà nói không lạnh.
- Tại con mặc quần đùi nên nó mới như vậy.
- Nghe lời má đi con.
- Dạ, để con mặc thêm “áo lạnh’.
Nó đi vào phòng lấy thêm áo đoạn trở ra ăn sáng, lăng xăng lạng quạng một lúc rồi ôm cặp đi học.
Đến xế trưa tan trường về nhà, thằng Tám liệng cái cặp lên trên giường ngủ rồi chạy tới cái kệ nhỏ treo sát vách trong phòng, thăm mấy con cá lia thia. Nó nuôi năm con mà toàn là ‘cá ta’, không có con ‘cá xiêm’ hay ‘cá nhật’ nào hết. Nó mê mấy con cá này còn hơn là mê ăn, mê ngủ. Đi xa ở đâu cả buổi, khi trở về nhà việc đầu tiên là đến ngắm nhìn mấy con cá đó. Cá lia thia ‘ta’ rẻ tiền, được bày bán ngoài chợ hay mấy chỗ chuyên bán cá lia thia rất nhiều. Cá xiêm lớn con, mạnh bạo hơn cá ta lại có màu sặc sỡ còn cá nhật cũng cỡ cá xiêm có kỳ phướn dài trông rất đẹp mắt. Nó cũng thích hai loại cá này lắm, nhưng không đủ tiền mua vì giá mỗi con mắc hơn cá ta gấp năm, mười lần. Trong năm con cá lia thia của nó có một con ‘mang xanh’ xuất xứ từ Rạch Giá trông rất hung hăng, có vảy màu xanh sáng lấp lánh. Những con khác là cá mang đỏ - chỉ có một tí đỏ ở mang thôi, còn toàn thân thì đen hay xám đậm.
Nó rút tờ giấy bìa cứng chặn giữa hai cái chai đựng cá. Hai con cá trong hai cái chai đó phùng mang, đuôi và kỳ căng phồng chúi đầu vào nhau rồi xoay ngang quạt đuôi mấy cái. Đôi lúc chúng không quạt mà gồng cứng thân lên như đang chịu đòn (?). Sau một lúc ‘đá bóng’ như vậy thân mình chúng trở thành màu đen mun, kỳ phướn tăng thêm màu xanh đỏ trông thật ngoạn mục. Thằng Tám nói chúng đang hăng máu chỉ muốn lao vào cắn xé nhau thật sự. Nó để tờ giấy chắn trở lại vì nghe nói để đá bóng lâu cá sẽ bị sờn mỏ, không còn đủ sắc bén cho lúc thật sự ra trận. Nó tiếp tục cho một cặp khác đá bóng. Xem đã một hồi, nó đi ra phía sau hè gần chỗ rửa chén kế bên nhà bếp dở mấy cục gạch lên để bắt trùng chỉ. Bắt trùng chỉ kiểu đó rất dễ nhưng lâu ngày cũng không còn, nó phải tìm chỗ đất ẩm ướt khác mà đào xới. Lúc nào tìm không đủ, nó đi xúc lăng quăng thế vào. Mấy con cá lại có dịp thay đổi món ăn. Được chừng mười con trùng, nó trở vào trong nhà cho cá ăn. Mỗi con cá được hai con trùng. Chúng ngậm trùng trong miệng rồi nuốt vào từ từ như trẻ con ăn mì sợi. Con trùng bị ngậm còn ló bên ngoài một khúc, cựa quậy vùng vẫy nhưng cũng không thoát đi đâu được. Ăn xong bụng con nào cũng căng phồng, no đầy. Thằng Tám đứng ngó một lúc rồi bỏ đi ra ngoài. Nó không cho cá đá bóng nữa vì nghe nói – lại nghe, chớ chưa thấy bao giờ – cá ăn no cần nghỉ ngơi, đá bóng có thể làm cho cá tức bụng mà chết.
Thằng Tám nuôi cá trong chai lớn cỡ một lít, lớn hơn chai bia con cọp một chút. Hôm trước nó học được cách cắt cổ chai bèn trổ tài biến thành mấy cái keo, không có nắp đậy. Nó kiếm một cọng sắt to bằng chiếc đũa, uốn cong lại thành một cái vòng vừa khít thân cái chai nó muốn cắt. Cái vòng sắt được đem nướng trên lửa cho đến khi cháy đỏ lên. Thằng Tám tròng cái vòng đang cháy đỏ đó vào chai đến chỗ nó muốn cắt rồi xoay một vòng cho hơi nóng truyền qua, đoạn đổ nước lạnh lên thật nhanh. Chỗ chai đang nóng bị nước giảm nhiệt độ một cách đột ngột nên nứt ra một đường tròn. Nó dùng cây gõ nhẹ một cái, phần trên chỗ nứt rơi xuống đất. Phần dưới của cái chai được nó đem đi mài trên nền ‘xi-măng’ cho bớt nhọn bén để không cắt đứt tay trước khi rửa sạch. Cá nuôi trong mấy cái keo biến chế này chắc không cảm thấy gì khác lạ, chỉ tiện cho người nuôi và trông đẹp mắt hơn. Nó dùng tờ giấy cứng làm nắp đậy mấy cái keo biến chế.
Buổi chiều ngày hôm sau đi học về thằng Tám thấy má đang làm món gà ‘rô-ti’ cho bữa cơm tối. Nó tưởng nhà có khách, nhưng đến tối cũng không thấy người lạ nào tới. Nó không thắc mắc hỏi han. Được ăn ngon no bụng là khoái rồi. Nhà nó nghèo anh em lại đông, ăn uống no đủ đã là một mối lo cho ba má. Lúc nào ăn được món ngon là nó cảm thấy hơi là lạ nhưng trong lòng rất vui. Nó nghĩ chắc chuyện tài chánh trong nhà đang có lúc dễ thở hơn. Hai hôm sau, tan trường vừa về đến nhà thằng Tám đã thấy anh nó ngồi nhổ lông gà trong nhà bếp. Anh nó kêu:
- Ê Tám, cất tập ra đây nhổ lông gà tiếp tao.
- Bộ bữa nay ăn gà rô-ti nữa hả?
- Không phải, gà xào sả ớt. Má nó lên tiếng.
- Sướng quá vậy! Con cũng thích món này nữa.
- Ừ, nếu con không học bài thì đi thay đồ rồi ra đây tiếp với anh Bảy.
- Dạ.
Thằng Tám chạy trở ra ngồi xuống cạnh anh nó nhổ lông gà. Nó hỏi:
- Nhà mình bữa nay có khách hả?
- Không có.
- Sao làm gà hoài vậy?
- Không làm thịt để nó chết rồi liệng bỏ sao.
- Ủa, gà bị cúm hả?
- Ừ, trời lạnh quá tụi nó bị cú rũ hết mấy con.
Thời đó không ai buồn khám xem có phải gà bị H5N1 hay không? Điếc không sợ súng! Mà có ai mang bệnh vì ăn thịt gà mắc toi đâu.
Ba thằng Tám nuôi một đàn gà khoảng vài chục con. Thường thì để lấy trứng ăn, lâu lâu làm thịt đãi khách hoặc dành cho đám tiệc. Gà mái cũng có dịp ấp trứng nên số lượng có tăng nhiều hơn so với số giảm vì bị ăn thịt. Thời tiết thay đổi, cái giá buốt của mùa Đông làm cho con người khó chịu đau yếu. Thú vật cũng bị ảnh hưởng lây. Thằng Tám thầm nghĩ: “Năm nay trời lạnh gió chướng nên gà ngã bệnh hơi nhiều, mới có một tuần mà đã ăn thịt gà cúm hai lần. Không biết còn bao nhiêu con nữa?” Nó nghĩ thoáng qua như vậy rồi cũng mau chóng quên đi. Tối hôm đó lại có một bữa cơm gà thiệt đã. Nó vô tư thưởng thức món ăn rồi ngủ một giấc thẳng ống qua đêm không còn nhớ gì hết.
Ngày kế tiếp, cũng sau giờ học về đến nhà thằng Tám lại thấy anh Bảy đang ôm một con gà trong một tay còn tay kia thì banh mỏ cố nhét vô một tép tỏi. Anh Bảy thấy nó thì kêu lên:
- Tám, lại đây tiếp tao.
- Anh làm gì vậy?
- Tao trị bệnh cúm cho gà.
- Ủa, cho gà ăn tỏi hết bệnh sao?
- Ừ, Tao nghe người ta chỉ như vậy. Làm thử xem.
- Ngộ quá hén.
- Mầy tiếp giữ cho nó đừng vùng vẫy để tao nhét tỏi vô.
Nó ngồi xuống một tay nắm hai cái chân, tay kia túm hai cánh gà lại. Anh Bảy nhét tép tỏi vô miệng con gà thật dễ dàng. Con gà khịt lên một tiếng giống như người ta hắt xì rồi lắc đầu mấy cái. Mấy tia nước dãi bắn ra tung tóe. Anh Bảy la lên:
- Bỏ nó xuống.
Thằng Tám thả con gà ra. Nó chập chững đi vài bước rồi đứng yên một chỗ. Anh Bảy tới đuổi. Đi thêm được một quãng lại té quỵ. Anh ấy lại quơ tay hù dọa. Con gà kêu “quác” một tiếng rồi chạy khuất ra sau một gốc cây. Hai anh em nó rượt theo. Thấy con gà đứng yên cú rũ, một tia nước dãi tiếp tục chảy xuống từ mỏ. Nó lại lắc đầu như ngầm bảo với anh em thằng Tám: “Không xong!” Anh Bảy đứng nhìn một lúc rồi nói:
- Kệ nó đi. Để ngày mai coi ra sao.
- Không bớt thì làm thịt nữa phải không?
- Ừ, thôi đi rửa tay đi.
Con gà đó sống thêm một ngày rồi đi hết nổi, đứng ì nơi gốc cây. Ai la, đuổi cũng mặc kệ. Cuối cùng nó chui vô nồi cháo mà nằm cho ấm!
Hai tuần lễ kế tiếp, cứ vài ba ngày thằng Tám lại được ăn thịt gà. Tiếng gà trống gáy mỗi sáng thưa dần. Gà mái cục tác cũng ít đi nhưng vẫn còn có con đẻ trứng, có con đang ấp. Chuồng gà cất sát vách phía sau nhà nên mọi sinh hoạt, động tịnh của chúng người trong nhà đều biết. Hôm được má sai ra chuồng gà lượm trứng mới đẻ đem vào nhà, thằng Tám tò mò đếm thử xem còn được mấy con đang ấp trứng. Chỉ có ba con gà mái còn nằm trên ổ, hai con ‘gà mái tàu’ và một con ‘gà ác’. Nó không biết tại sao người ta gọi là gà tàu, có phải gà từ bên Tàu tới không? Còn gà ác là sao? Có lần nó nghe người ta giải thích là gà này nhỏ con, da thịt đen và hung hăng lắm nên bị gọi là gà ác. Lúc nó đến gần, mấy con gà mái ré lên như báo động rồi sừng bộ lông làm như sẵn sàng chiến đấu bảo vệ trứng đang ấp. Nó đưa tay tới định đếm coi con gà đang ấp có bao nhiêu trứng. Hai con gà mái tàu mổ cho mấy cái đau điếng. Đến lượt con gà ác, nó rụt rè đưa tay tới nhưng ngạc nhiên không bị gì. Đếm được thấy chỉ có ba cái trứng nằm dưới bụng con gà này, thằng Tám nói thầm: “gà ác sao mà hiền vậy, tao tưởng cũng bị mầy mổ cho một cái.” Thắc mắc của nó được giải đáp sau đó không lâu. Hai ngày sau nó khám phá ra con gà mái ác nằm cú rũ trên ổ, sụt sùi chảy mũi và gần như bất động. Thì ra chị gà này đã mang bệnh cúm mấy ngày trước nên mới hiền như thế. Nó nhấc con gà mái lên khỏi ổ, thấy một trong ba cái trứng đã khảy mỏ. Vỏ trứng bể ra một mảng lớn cho thấy mỏ và một phần thân gà con. Cái mỏ nhỏ xíu ấy cử động phát ra tiếng kêu ‘chíp, chíp’. Nó chạy vào nhà nói với má:
- Má ơi, con gà mái ác bị cúm sắp chết rồi. Có một trứng gà con đang nở. Làm sao bây giờ hả má?
- Vậy hả. Còn hai trứng kia thì sao?
- Con không biết. Thấy nó im ru hà.
- Con lấy cái trứng đã khảy mỏ bỏ qua ổ của con gà mái tàu để nó ấp tiếp, còn hai cái kia đem vô cho má coi.
ThằngTám làm theo lời má dặn, lại bị mổ thêm một phát khi bỏ trứng vào ổ gà mái tàu. Má nó cầm từng cái trứng lên, áp sát vào tai nghe ngóng đoạn lấy một cái thau đổ đầy nước rồi thả hai cái trứng vào đó. Sau mấy giây yên lặng quan sát, má nó nói:
- Không có trống. Hai cái này chắc thành trứng ung – có nghĩa là thối, trứng đã chết.
- Sao má biết?
- Má thấy nó không nhúc nhích khi bỏ vào thau nước.
- Nhúc nhích thì sao?
- Nhúc nhích là gà con bên trong còn sống đang lội vì biết ở trong nước.
- Ngộ quá hé! Gà con còn trong trứng mà biết lội.
- Trời sanh nó như vậy đó con.
- Vậy má tính làm sao?
- Đem con gà mái ác vào cắt cổ. Còn hai cái trứng này thì luộc ăn.
- Thúi rồi còn ăn được sao má?
- Má thích mùi trứng ung, mà ăn cũng không có hại cho sức khõe thì tội gì liệng bỏ.
- Má hà tiện nên mới nói vậy thôi chớ con có ngửi mùi trứng này rồi, ăn không nổi.
- Tao khác mày, đừng có cãi nữa.
- Dạ, con đem con gà ác vô làm thịt hả má.
- Ừ.
Hôm sau thằng Tám ra chuồng gà canh chừng xem cái trứng gà ác đã nở hết chưa. Nó hết hồn khi thấy con gà mái tàu đang mổ vào chú gà con có bộ lông trắng như muốn xua đuổi. Nó quơ tay để cản con gà mái với ý định che chở cho chú gà con. Con gà mái ngó theo tay nó, nằm yên một chút rồi lại tiếp tục. Nó tiến tới gần hơn, một tay quơ cản con gà mái còn tay kia chộp bắt chú gà con rồi chạy vào nhà. Thằng Tám đặt chú gà con lên mặt bàn ăn trong bếp, quỳ hai chân xuống đất, hai tay ôm cạnh bàn trố mắt chăm chú nhìn. Chú gà con ngơ ngác kêu chíp chíp, bước vài bước chập chững trên mặt bàn. Cái mỏ màu xanh xám giống như màu của hai cái cẳng. Các bộ phận nhỏ xíu ấy kết hợp với thân hình tròn trịa, trắng như cái bông bưởi làm cho chú gà con trông giống như một thứ đồ chơi dễ thương chưng bày trong các cửa tiệm. Đây chính là chú gà ác con đã ra khỏi vỏ, nó tự bảo mình. Nó đưa tay ra chầm chậm đụng vào thân chú gà con. Con gà kêu lên vài tiếng nhưng không né tránh mà đứng yên rồi quay đầu lại mổ nhè nhẹ lên mấy ngón tay của thằng Tám. Còn đang thích thú với món đồ chơi mới thì má bước vào trong nhà bếp hỏi:
- Tám, con đang làm gì vậy?
Chưa kịp trả lời thì bà đã hỏi tiếp:
- Ủa! Con gà con đó ở đâu ra vậy?
Thằng Tám kể lại chuyện chú gà con đoạn hỏi:
- Mình phải làm sao hả má? Đem để trở lại ổ con gà mái tàu thì nó mổ hoài chắc chết.
- Vài ngày có thể nó quen mà không mổ nữa.
- Nhưng biết nó có chịu nổi mấy ngày bị mổ không?
Nó ngập ngừng một hồi rồi rụt rè đề nghị:
- Hay là má cho con đi, con nuôi nó.
- Nó còn nhỏ quá làm sao con săn sóc được như gà mẹ
- Con sẽ cho nó ăn, ngủ đầy đủ.
- Nhưng nó cần gà mẹ ủ cho ấm
- Con sẽ lấy vải làm ổ, ủ cho nó.
- Mầy đã có năm con cá lia thia rồi, thì giờ đâu mà nuôi thêm gà.
- Con làm được mà, má cho con nghen?
- Má chỉ sợ con không còn giờ học bài. Học hành không ra gì, ba đánh đòn nứt đít đó.
- Không sao đâu má, con sẽ cố gắng học mà.
Tuy nói vậy nhưng nó thấy hơi chùn bước khi nghe má nhắc tới mấy cây roi của ba. Nó ăn đòn hơi nhiều nên giống như chim sợ ná.
- Ừ thôi cũng được, nhưng phải hứa với má ráng học cho giỏi nghe không.
- Dạ.
Nó khoái quá nên hứa đại mà không biết có làm được không. Ôm chú gà con trong lòng bàn tay, thằng Tám đứng lên đi vào chỗ giường ngủ.
- Con đem nó đi đâu vậy?
- Con để nó trên giường ủ cho ấm.
- Không được, con đâu có ngủ chung với gà. Con sẽ đè nó chết, chưa kể nó sẽ phóng uế trên giường ngủ của con.
- Vậy để nó ở đâu?
- Đi tìm một cái hộp gỗ hay giấy cứng mà để nó trong đó.
- Dạ.
Sau một lúc lùng soát, sục sạo khắp nhà thằng Tám bưng ra một cái hộp gỗ, cỡ cái hộp đựng bánh trung thu khoe:
- Cái này được không má?
- Ý! Đó là cái hộp đựng kim chỉ vá may của má.
- Má cho con mượn đi.
- Còn mấy thứ trong đó đâu?
- Con đổ qua cái quả bánh tròn bằng thiếc của má rồi.
- Thiệt là hết nói! Con mê đồ chơi mà không biết nể nang gì hết.
- Vậy thôi, con trả lại cho má.
- Thôi, cũng không sao. Má cho con mượn nhưng nhớ lấy giấy, vải lót giữ gìn cho má.
- Dạ.
Được má gật đầu nó vui lắm, chạy đi lấy giấy báo và vải cũ lót trong hộp đoạn mang vào phòng ngủ. Chú gà con đang đứng rung rung cạnh đống mền gối của nó, kêu chim chíp nho nhỏ. Cách đó không xa là một cục gì trăng trắng. Nhìn kỹ lại nó giật mình kêu: “Má nói đúng thật, chưa gì mà đã cho tao một cục phân trên giường ngủ rồi.” Nó đặt chú gà con vào trong hộp rồi lo lau chùi phân gà mà không dám hó hé một tiếng. Bụng làm dạ chịu! Phải ngửi mùi phân gà trong giấc ngủ chắc nó cũng không dám than.
Nhìn chú gà ác con đi lòng vòng trong khuôn viên chiếc hộp, thỉnh thoảng đứng yên mổ nhẹ vào giấy báo hay vách hộp. Thằng Tám cảm thấy thích thú. Nó vui vì có một món đồ chơi mới, sống động, dễ thương. Chú gà con vẫn tiếp tục đi, mổ, đứng lại và kêu chim chíp. Vậy thì chán lắm, có gì vui đâu. Nó còn làm gì nữa? Thằng Tám đưa tay rờ trán suy nghĩ. À! Nhớ rồi - Con gà cũng cần ăn, uống, ngủ nghỉ vì đó là một sinh vật. Nghĩ tới đây, nó vội chạy vào bếp mở nắp thùng bốc một nắm gạo. Chú gà con đứng lại nhìn mấy hạt gạo được ném vô hộp rồi từ từ bước tới mổ một hột. Tưởng con gà sẽ nuốt hột gạo đó, không ngờ nó lại bỏ xuống. Nhiều hột gạo khác cũng bị gắp lên, bỏ xuống như vậy. Lâu lắm nó mới nuốt một hột. Hừ, gà con mà kén ăn! Chắc nó lựa hột gạo nào ngon mới nuốt. Sao khó quá vậy? Thằng Tám thấy bầy gà của ba nó đi bươi, bới cả ngày. Gặp thứ gì cũng mổ, cũng ăn được. Có khi ăn sâu, bọ, côn trùng, đá sạn và cả dây thun nữa. Lúc nào má nó gọi về tặng cho mấy nắm cơm nguội, chúng nó giành nhau ăn ngon lành. Gạo, thóc còn hết lẹ không còn sót một hột. Nó đi ra hỏi má:
- Má, sao con gà con kén ăn quá vậy? Con phải cho nó thứ gì nó mới chịu ăn?
- Con đang cho nó ăn gì vậy?
- Gạo.
- Con lấy trong bếp phải không?
- Dạ, có một chút xíu thôi mà má.
Nó tưởng bị la nên bào chữa.
- Không phải. Má muốn biết con cho nó ăn loại gạo gì.
- Nghĩa là sao hả má? Nhà mình chỉ có một thùng gạo đó thôi.
- Còn một khạp nhỏ khác cất trong buồng ngủ của má.
- A! Chắc gạo đó ngon đặc biệt phải không?
- Không. Đó là gạo tấm, dùng để nấu cơm tấm đó mà.
Thằng Tám đột nhiên bỏ chạy trở vô phòng ngủ, ngồi xuống chăm chú nhìn. Con gà vẫn tiếp tục mổ gạo, nó chỉ nuốt những hột bể nhỏ còn hột lớn thì bỏ xuống. Nó trở ra nói với má:
- Con biết rồi! Con gà còn nhỏ nên không nuốt nổi hột gạo lớn phải không má?
- Ừ.
- Vậy má cho con một ít gạo tấm nghe.
- Gạo tấm cũng còn sót một ít hột còn nguyên. Tốt hơn con nên giã sơ cho hột gạo bể nhỏ ra hết rồi mới cho nó ăn.
- Dạ, để con làm.
Nó lấy một nắm gạo khác bỏ vào cối giã tiêu làm theo chỉ dẫn của má. Lần này chú gà con không còn lựa chọn, đụng hột nào thì nuốt hột đó.
Suốt buổi chiều hôm ấy, thằng Tám loanh quanh bận rộn với chú gà con. Hết cho ăn rồi lại uống. Cái chuồng gà nhỏ trở nên chật chội vì nhiều vải vụn, hai cái chung nhỏ đựng gạo và nước. Chỗ còn trống thì đã thấy lấm tấm mấy chấm phân gà. Trời vừa chạng vạng tối, chú gà con kêu chim chíp nhiều hơn. Chú nhìn quanh như tìm kiếm. Thằng Tám biết gà thường đi ngủ sớm vì lúc đó chúng không còn thấy rõ mọi thứ chung quanh nữa. Trong đám bạn của nó có thằng Côi Quáng Gà. Thằng này thật đặc biệt vì có nhiều biệt danh – Côi Ghiền, Côi Quáng Gà. Thằng Côi không thấy rõ như những người bình thường khác lúc trời vừa nhá nhem tối. Không biết ai đã bày ra mẹo vặt chữa bệnh quáng gà. Một lần mấy anh nó đã dùng bao ny-lông đựng nước tiểu đập vào mặt nó một cách đột ngột cũng vào lúc hoàng hôn như vậy. Nó la làng té xuống đất tưởng bị trời đánh. Nhưng bệnh quáng gà vẫn còn đó, nó vẫn phải trở về nhà trước khi trời chạng vạng để khỏi bị vấp ngã vì không thấy đường.
Thằng Tám đẩy chú gà con vào một góc hộp nơi có vải vụn lót bên dưới, đoạn lấy thêm vải đắp lên trên như đắp mền cho ấm. Chú gà con nằm yên, bớt kêu. Chắc chịu cái tổ mới này rồi.
Từ sau hôm có thêm chú gà con làm bạn, thằng Tám bận rộn suốt ngày. Hết cá lia-thia tới gà. Vậy mà nó cũng còn thời giờ đi ra bên ngoài chơi đùa, đá banh với chúng bạn. Nó vui lắm, tuổi học trò của nó như vậy là quá sướng rồi. Nó không biết gì đến chuyện đời chung quanh. Ở tuổi đó chuyện đời có nghĩa lý gì đối với nó. Nhưng có một chuyện không nhỏ liên quan trực tiếp tới nó cũng bị bỏ quên.
Một hôm đi học về, thằng Tám ra sau hè ngồi cạnh bên chuồng gà chứ không ra trước nhà kiếm bạn đi chơi như mọi lúc. Nó nhìn ra phía xa nơi có mấy hàng cây me nước làm hàng rào cho chu vi trường tiểu học, đôi mắt thẫn thờ mệt mỏi. Được mấy phút, nó vói tay cầm một que củi vẽ lằn quằn trên mặt đất. Bà Sáu Quân đang chuẩn bị cho bữa cơm chiều trong bếp cạnh đó không xa nên nhìn thấy chuyện có vẻ hơi khác thường. Bà bước ra ngoài đến bên cạnh thằng con thứ tám hỏi:
- Có chuyện gì hả con?
- Dạ hông.
- Đừng giấu má. Sao hôm nay con không ra ngoài trước chơi mà ngồi đây làm gì?
- Dạ... Dạ, con không thích.
- Hay là gây lộn với thằng nào rồi phải không?
- Dạ hổng có.
Bà Sáu hứ nhỏ một tiếng vì không bằng lòng với câu trả lời đó. Quay lưng định trở vào trong nhưng chợt thấy mấy chữ nguệch ngoạc dưới đất do thằng Tám vẽ ra, bà dừng lại nhìn một lúc rồi hỏi:
- Con bị thầy phạt trong lớp phải không?
- Không có... Không có. Nó vội vàng chống chế.
- Hôm nay con làm bài được không?
- Dạ cũng được.
- Má không tin. Con vẽ mấy cái trứng vịt trên đất có nghĩa gì.
- Con... con...
Thằng tám ấp úng một hồi rồi nói với giọng mếu máo:
- Con... con.... bị... ăn trứng vịt.
- Sao vậy?
- Con quên làm bài tập nên không có nộp cho thầy.
- Vậy bữa nay chắc con no rồi phải không?
- Má....
Bá Sáu nói đùa cho nó bớt buồn chứ trong lòng bà cũng có phần lo lắng. Học trò lãnh con số không cho bài tập thì chỉ còn nước lên quỳ gối bên cạnh cái bảng đen. Nhớ tới đây bà lại hỏi:
- Ổng có phạt con quỳ gối không?
- Dạ không.
- Sao ổng hiền quá vậy.
- Thầy con cũng giận khi thấy con không làm bài lần này. Nhưng ổng tha, khỏi quỳ gối.
Bà biết tại sao thầy giáo tha nó. Ba thằng Tám và thầy giáo Đổng là bạn đồng nghiệp cùng dạy chung một trường. Hai người còn là bạn lúc thiếu thời nên có chỗ thân thích, nể nang nhau. Bà cũng biết tại sao nó quên làm bài tập. Bà nói:
- Con nên bỏ bớt thú vui của mình. Ráng dành thì giờ để học hành.
- Dạ
- Hay là con trả con gà con lại cho má đi.
- Tại con quên mà má. Con gà đó đâu có làm mất thì giờ của con.
- Sao không! Má thấy con lẩn quẩn với nó cả buổi.
- Con sẽ bỏ bớt đi chơi bên ngoài, để làm bài tập cho xong.
Nó van nài, rồi tiếp:
- Con hứa sẽ không để bị ăn trứng vịt nữa.
- Lần sau má nhất định không cho con nuôi con gà đó nữa. Chịu không?
- Dạ con chịu. Má đừng cho ba biết nghen má.
- Thêm một lần nữa má sẽ cho ổng biết, con liệu mà lo học hành.
- Dạ.
Nó mừng lắm vì tránh bị ba đánh đòn. Ba mà biết được chắc nó phải lãnh mấy cây vào mông. Chắc chắn cây nào cũng đau điếng. Có lúc nó tự hỏi: Sao ba đánh đòn đau quá vậy ta? Bộ ổng không tội nghiệp cho con cái của ổng? Nó nhớ hôm trước nghe ba giải thích cho má: “Tôi không đánh đòn cho chúng nó sợ thì làm sao dạy được hết mười đứa con.” Thì ra là như vậy. Đó là phương pháp dạy con của ba. Ổng còn nói thêm: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi.” Thằng Tám nghĩ chắc ba nói đúng, vì ổng là thầy giáo mà, nên đành cúi đầu chấp nhận – chớ dám làm gì khác?
Thầy giáo Đổng có hai người con trai, trang lứa với thằng Tám. Thằng Tâm và thằng Thành. Chúng nó còn một người chị cả lớn hơn những mười mấy tuổi. Không biết tại sao có sự cách biệt quá xa như vậy, nó cũng không buồn tìm hiểu mặc dù tụi nó là bạn chơi thân với nhau. Thằng Tâm cũng học lớp nhì như thằng Tám, nhưng lại là học trò của ba nó. Nghĩ cũng ngộ, hai thằng có thầy là ba của bạn mình. Không hiểu hai ông giáo có giao ước với nhau điều gì trong việc dạy dỗ con của bạn mình không. Nó cũng chẳng cần biết!
Mới học lớp nhì nhưng thằng Tâm đã tỏ vẻ là người lớn. Nó ăn mặc tươm tất, chải chuốt. Tay chân quần áo lúc nào cũng sạch sẽ, da dẻ trắng như một cậu công tử. Nó không chơi những trò trẻ con như thằng Tám mà thích nói chuyện thơ văn, thời sự. Thằng Tám chỉ thân với nó lúc ở trường còn về nhà thì đi chơi với Thành, em nó. Thành học dưới tụi nó một lớp, người mập mạp, đầu to quá khổ nhưng đầy ghẻ nhọt. Lâu lâu má nó đem tới tiệm hớt tóc cạo trọc để dễ chữa trị bệnh ghẻ. Những lúc đó tụi nhỏ trong xóm gặp thằng Thành thì hát: ‘Thầy chùa đi lùa cá sặc...’ Chưa hết câu đã kéo nhau bỏ chạy để khỏi bị ăn mấy cục đá do thằng Thành ném tới.
Thành cũng chơi cá lia thia như thằng Tám. Ba má nó có của, nhà lại ít người nên nó được ưu đãi. Nó nuôi đủ loại cá: cá ta, cá xiêm, cá nhật. Mỗi khi có dịp đến chơi nhà thầy, thằng Tám mê coi mấy con cá xiêm, cá nhật ấy đá bóng. Thằng Thành chơi cá có “trình độ”, hơn thằng Tám một bậc. Không biết thầy nào chỉ dạy mà nó nuôi giòi trong đầu rắn độc đã chết, rồi đem cho cá lia thia ăn. Nó khoe: ‘Con nào bị cá của nó cắn phải thì chỗ đó sẽ làm độc rồi chết’. Thằng Tám phục lắm, mặc dù không biết điều đó có thật hay không. Tuần trước thằng Thành rủ đá cá nhưng nó từ chối vì sợ cá mình bị nọc rắn độc giết. Mấy ngày sau đó đám con nít trong xóm nhà lá của nó biết chuyện, và vì muốn coi độ cá đá nhau nên bàn vô. Tụi nó nói:
- Làm gì có chuyện cá có nọc độc.
- Nếu con giòi có nọc độc thì khi cá ăn vô đã ngủm cù tèo trước rồi.
- Ừ phải, con cá đó không chết thì cũng bệnh hoạn cùi lở thôi.
- Nó hù mầy đó Tám ơi. Đừng có sợ. Tao thấy mấy con cá của mầy cũng “chiếng” lắm.
- Chơi liền, sợ gì Tám.
Thằng Tám ngần ngừ, do dự:
- Thiệt hông?
- Sao không. Cá mầy chết tao đền cho.
- Dễ gì kiếm được con cá khác ngon như con của tao.
- Thiếu gì. Có lúc mầy sẽ gặp.
Nó nghe bùi tai nên đồng ý cáp độ. Bốn năm đứa bèn rủ nhau ra nhà thằng Thành. Đi qua khu nhà lá, vượt con đường cái của thị xã đến khu nhà ngói, tường gạch thì thấy thằng Thành đang chơi trước sân. Một thằng trong bọn la lên:
- Ê Thành! Đá cá không?
- Cá của mầy hả?
- Hổng phải. Cá của thằng Tám.
- Đá liền. Mà Tám, mầy không sợ cá của mầy chết nữa hả?
- Hông.
- Chừng nào đá?
- Liền bây giờ. Mầy bưng cá vào nhà tao.
- Vậy mầy chấp nước phải không?
- Ừ.
Chấp nước có nghĩa là thả cá của mình vào keo hay chai đựng cá của đối phương. Cá được chấp nước có lợi thế chơi ở “sân nhà” và không bị khủng hoảng tinh thần lúc bị chuyển sang “sân” của kẻ địch. Thành vào nhà bưng keo đựng con cá ta số một của nó bỏ vào cái bao giấy rồi theo bọn thằng Tám.
Trận đá cá được bày ra ở phòng khách nhà thằng Tám. Trong nhà chỉ có má nó và vài người anh. Không có ba, lại càng tiện vì nó ngại ông ấy la rầy. Nó đem con cá ‘nhất’ ra để đối đầu với con số một của thằng Thành. Thằng Tám chưa bao giờ cho cá của nó đá với nhau để xếp hạng, thấy con nào hung hăng to lớn thì đặt là cá nhất, cá nhì theo thứ tự lớn nhỏ mà thôi. Đám bạn của hai bên bu chung quanh cái bàn ở giữa nhà gần một chục đứa. Mấy người anh thằng Tám thấy không khí vui nhộn cũng kéo ghế ngồi xem. Má nó đang nằm nghỉ trên chiếc võng trong nhà bếp nghe ồn ào nên bước ra phòng khách. Bà hỏi:
- Mấy đứa con làm gì đông quá vậy?
Chợt thấy hai cái keo đựng cá lia thia trên bàn, bà cằn nhằn:
- Đá cá nữa hả? Tội nghiệp tụi nó mà con. Cá đang đẹp không để coi, đá một hồi trầy vi tróc vẩy hết còn gì!
Không thấy đứa nào lên tiếng, bà nói nhỏ thêm câu gì không ai nghe rõ rồi đi trở xuống nhà bếp. Sau mấy phút đá bóng hai con cá đổi màu trở nên đen mun, hung hăng đâm đầu vào thành keo như không chờ đợi được. Thằng Tám tách hai cái keo ra xa, hỏi:
- Tao thả cá vô keo của mầy được chưa?
- Rồi, bỏ vô đi.
Nó lấy cái vợt xúc cá làm bằng cọng dây kẽm may với vải mùng từ từ vớt con cá thả qua cái keo cá của thằng Thành.
Thật bất ngờ, sau giây phút né tránh cái vợt, con cá của thằng Thành phóng thẳng tới con cá của thằng Tám vừa mới ló đầu ra táp liền một cái phủ đầu. Khán giả phải la lên:
- Ồ... ồ... ồ. Dữ thiệt. Mới vô đã cắn rồi.
Con cá của thằng Tám bị đòn bê qua một bên vách keo. Nó không bỏ chạy mà giương kỳ, xòe đuôi, phùng mang lên nhìn về con cá của thằng Thành rồi tiến tới. Tụi nhỏ tiếp tục reo:
- Cắn lại nó trả thù liền.
Nhưng nó không cắn mà quay ngang, gồng mình lên và quạt đuôi tới tấp khi tiến sát tới gần đối phương. Cá của thằng Thành không chịu kém cũng quay ngang quạt trả đũa. Mặt nước trong keo bị giao động vì sức ép của sự xô đẩy đó. Hai con cá vừa quạt đuôi vừa quay đầu phùng mang nhìn vào thân hình của đối phương như đang tìm kiếm chỗ nhược để tấn công. Chúng đang ở vị thế cùng chiều. Đột nhiên cá thằng Tám trở đầu nhìn vào phần đuôi của con kia, chu mỏ phóng vào nơi đó thật nhanh nghe soạt một tiếng nhỏ. Tụi con nít kêu:
- Rồi, đứt một mảng đuôi.
Cá thằng Thành không đợi lâu trả đũa liền một phát, cắn đứt một mảng kỳ bên dưới của đối thủ. Hai con cá bắt đầu tăng tốc độ quạt đuôi và cắn vào nhau nhanh hơn. Khán giả bàn tán xôn xao:
- Cắn đứt kỳ, đuôi chưa có đau.
- Phải rồi, chừng nào cắn trúng mình mới sợ.
- Cắn trúng vào cái mang còn độc hơn.
- Mầy thấy con nào đang thắng thế.
- Chưa, còn ngang ngửa.
- Tao cá con của thằng Thành sẽ thắng.
- Tao bắt con của thằng Tám.
- Mầy bắt cái gì?
- Một cục đạn cu-li bằng chai.
- Móc ngoéo liền.
- Ừ.
Đến lúc này thằng Thành lên tiếng khe khẽ:
- Tụi mầy đừng la lớn, cá bị động bỏ chạy thì xù đó.
Vừa lúc ấy con cá thằng Tám quay đầu đâm mỏ vào giữa thân mình đối phương thật mạnh. Một chiếc vẩy nhỏ rơi ra, lững lờ trong nước. Một thằng trong bọn kêu lên:
- Chết cha, cái đó đau lắm.
Cá thằng Thành gồng mình, đuôi kỳ xòe to lên cho thấy da thịt săn chắc như ngầm nói: Không sao, đừng có lo! Đoạn lao đầu vào kẻ địch. Nó ngoạm đứt một mảnh đuôi của đối phương trong miệng. Tưởng sẽ nuốt luôn vô bụng nhưng lại phun ra bỏ trôi trong nước. Thằng Tám quỳ bên cạnh bàn, hai tay nắm chặt theo dõi trận đấu. Nó cảm thấy bụng đau nhói mỗi khi cá của nó bị ăn đòn. Chừng năm phút sau, hai con cá bị đòn te tua; kỳ, đuôi rách nát. Thân hình thì lòi thịt lốm đốm vì mất mấy miếng vẩy, đúng như lời má thằng Tám đã tiên đoán.
Trận đấu bắt đầu chậm lại vì thương tích và sức lực bị hao mòn. Hai con cá quay mặt ghìm nhau một giây, thình lình chúi đầu tới câu hai cái mỏ dính lại. Chúng để như vậy mà lắc mình qua, lại hoặc lăn tròn mấy vòng. Lúc đó nhìn thấy mang của chúng phập phồng thật mạnh, chắc là cố hít thở để lấy sức. Khán giả lại bàn tán:
- Tụi nó có cắn nhau hay bẻ răng không mậy?
- Không biết. Tao chắc tụi nó đang nghỉ dưỡng sức.
- Con nào buông trước thì sẽ bỏ chạy.
- Sao mầy biết?
- Nó bị ngộp thở vì yếu hơn con kia.
Hai con cá buông ra cùng một lúc. Trồi đầu lên mặt nước hớp không khí rồi trở lại quạt, quậy đấu tiếp. Sau vài đòn tấn công yếu ớt, chúng lại câu mỏ một lần nữa. Cả hai chìm dần xuống đáy keo, nằm thở thật mạnh. Lúc bỏ ra, cá thằng Thành trồi đầu lên mặt nước trước. Cá thằng Tám không ló đầu lên mà tiến tới đón đường, sắn vào đối phương một đòn bất ngờ. Cá thằng Thành bê vào vách keo rồi chúi mũi vô đó, quẫy đuôi lội thẳng xuống đáy keo. Khán giả reo lên:
- Thua rồi! Cá thằng Thành chạy rồi.
- Thấy không tao nói đâu có sai.
- Mầy hên, đoán mò mà đúng.
Cá thằng Tám phùng mang, cong mình, giương bộ kỳ rách nát đuổi theo. Cá thằng Thành tiếp tục chạy lên, chạy xuống theo vách keo như muốn tìm đường tẩu thoát. Nó không còn đen mun, rực rỡ nữa mà trở nên trắng nhợt để lộ ra mấy lằn sọc dọc theo thân. Thằng Thành lên tiếng:
- Tám, bắt cá mầy ra.
Thằng Thành đậy nắp keo, bỏ vào bao giấy. Trước khi ra về nó còn quay lại hỏi:
- Dám đá với cá xiêm của tao không?
- Hông. Thằng Tám trả lời.
- Tao chấp nước luôn?
- Cũng không. Tao đâu có ngu.
Lũ nhỏ tan hàng đi ra ngoài mà vẫn còn bàn tán:
- Tao biết cá thằng Tám thắng ngay từ đầu.
- Xạo quá đi! Mầy ăn rồi muốn nói gì cũng được.
- Không cần biết, chung cho tao một cục cu-li.
- Tao không có ở đây, để về nhà tao lấy.
Thằng Tám mang keo đựng cá để lại trên kệ trong phòng ngủ, lấy tấm bìa cứng ra để cho đá bóng. Nó muốn coi lại tình trạng con cá vừa thắng trận ra sao. Con cá thật là tả tơi mà vẫn còn đen mun. Nó tiếc cho bộ kỳ vi đã rách nát nhưng trong lòng có chút thỏa mãn khoái trá. Bà Sáu Quân đi theo nhìn con cá. Bà nói:
- Tội nghiệp nó chưa. Mấy đứa ác thiệt.
- Không sao đâu má. Mấy hôm nữa nó sẽ lành lặn trở lại mà.
Anh thằng Tám đứng bên cạnh chống chế giùm. Anh ấy vỗ vai nó khen nhỏ:
- Hay quá! Cá của mầy đá coi đã thiệt.
Thằng Tám cảm thấy vui mặc dù hơi lo khi nhớ tới cái đầu rắn độc. Một tuần trôi qua con cá vẫn mạnh khoẻ, các vết thương dần dần lành mặt.
Sau lần bị ăn trứng vịt thằng Tám bớt đi chơi, lo chú tâm học bài. Nó sợ mất chú gà con nên tỏ vẻ ngoan ngoãn hơn. Chú gà con cũng thay đổi. Thân mình mọc ra vài cọng lông vũ và cũng không còn ở thường xuyên trong cái hộp nhỏ đó nữa. Ban ngày chú nhẩy ra khỏi hộp đi du hí. Chiều đến, nó kêu chim chíp trở về leo lên cái chuồng cỏn con ấy mà tìm chỗ ngủ. Lúc đầu còn quanh quẩn dưới chân giường ngủ của thằng Tám. Nhưng đến ngày thứ hai đã lang bang tới nhà bếp, nơi có nhiều thức ăn cho nó bươi móc. Bà Sáu thấy chú gà dễ thương nên không xô đuổi, trái lại còn mời mọc và cho chú nhiều món ăn lạ miệng. Mỗi khi lựa thóc ra khỏi nồi gạo để nấu cơm, bà kêu chú gà tới và tặng cho nó mấy hạt thóc đó. Nhìn con gà nhỏ với bộ lông trắng như bông, bà cũng không dằn lòng được nên đưa tay sờ đầu, vuốt lông. Con gà kêu chíp chíp, mổ thóc nuốt ngon lành. Nó đã ăn được những hạt gạo còn nguyên mà không cần giã nhỏ ra nữa.
Những ngày kế tiếp, chú gà bắt đầu một một cuộc du hành mới dọ dẫm các nơi khác trong nhà. Nó tới hết phòng này đến khu vực nọ, cả phòng khách cũng không chừa. Muốn biết nó đang ở đâu thì chỉ cần lắng nghe tiếng kêu chim chíp. Tiếng kêu ấy thưa dần theo thời gian trưởng thành của nó. Có lúc thằng Tám phải kêu ‘túc, túc’ nhiều lần để gọi chú về trình diện. Nó lại có công tác mới: Hốt phân gà! Có lần chậm trễ để ba đạp phải. Ổng nổi giận đòi liệng con gà ra sân. Nói nghe khó khăn như vậy nhưng ổng chưa làm bao giờ. Chú gà lang thang trong nhà nên quen với mọi người. Anh em thằng Tám thấy chú ở đâu cũng cố ‘nựng’ một cái – vuốt ve hoặc cho ăn. Giờ cơm của gia đình, chú ấy lại lẩn quẩn dưới chân bàn. Vậy là chú no đủ. Hết lượm cơm rơi đến thưởng thức món đặc biệt do chủ nhà ban bố. Ba thằng Tám không bao giờ đụng tới chú, và cũng chẳng cho nó tí gì bỏ bụng. Chắc ổng không ưa nuôi gà trong nhà. Anh em thằng Tám thì khác. Đang ngồi ăn cũng ráng thò chân khều khều chú. Bạn bè của các anh tới nhà chơi thấy chú gà ngộ nghĩnh cũng làm quen. Các anh ấy ngồi ở bàn trò chuyện hay đọc sách nhưng thấy chú tới gần cũng không quên đưa chân ra chọc ghẹo. Con gà thấy chân của con người nhiều hơn những phần khác. Cái người mà nó thấy cả tay và mặt nhiều nhất là ‘ông chủ nhỏ’ của nó – thằng Tám. Thằng Tám đi đâu về cũng kiếm chú gà con. Ngồi xuống vuốt ve hoặc cầm lên dòm ngó. Chú gà bỗng nhiên trở thành một thành viên mới trong gia đình. Đang làm gì ở đâu mà nghe tiếng chân người thì chú bỏ hết rồi đi theo, giống như đi kiếm bạn. Ai đi nhanh thì chú chạy, còn người đi chậm hay đứng yên thì chú ngơ ngác một lúc rồi lảng ra chỗ khác. Hình như chú cảm thấy không thú vị làm bạn với những bước chân âm thầm đó.
Lật bật mà chú gà con đã được một tháng tuổi, trông khác ngày đầu quá chừng. Chú cao gấp đôi, lông măng đã mất đi gần hết. Thay vào đó là những chiếc lông vũ đầy ở hai cánh. Đuôi thì nhú vài cọng chĩa thẳng lên trên. Hai cái cẳng vẫn xanh đen nhưng sạch sẽ so với mấy con gà bươi bới sau vườn.
Một hôm tan trường về nhà, thằng Tám không thấy chú gà ra đón như mọi ngày. Nó kêu ‘túc túc’ mấy tiếng cũng không thấy chú chạy ra. Đang lui cui tìm dưới chân giường ngủ thì má lên tiếng:
- Tám, con kiếm con gà hả?
- Dạ.
- Nó ở đây nè.
Thằng Tám đi vào trong bếp thấy chú đang nằm trên mớ vải vụn kêu chim chíp. Nó đưa tay vuốt từ trên đầu xuống tới hai cánh. Chú gà kêu lớn hơn, định đứng lên nhưng nữa chừng thì nằm xuống lại. Chú đứng lên một lần nửa nhưng chỉ với một cẳng nên không vững lại té xuống. Thằng Tám lòn tay dưới ức nâng chú lên thấy cẳng bên trái xụi lơ lại có vết máu còn cẳng bên phải run bần bật. Nó ngạc nhiên hỏi:
- Má, con gà bị sao vậy?
- Gãy hết một chân rồi.
- Sao vậy?
- Hồi trưa nhà mình có khách quen đi từ cửa trước vô bếp, nó chạy theo dưới chân. Người ta không biết nên đạp trúng làm gãy cái cẳng trái.
- Ai mà ác vậy?
- Người ta không thấy mà con.
- Tội nghiệp nó quá! Nó có chết không má? Thằng Tám hỏi, giọng hơi run.
- Không chết đâu; “chó liền da, gà liền xương”.
- Có cách nào giúp nó mau lành và khỏi bị tật không má?
- Má nghe thầy thuốc Nam nói, lấy rau dấp cá đâm nhuyễn đắp lên.
- Nhà mình có rau dấp cá không?
- Mai má đi chợ mua cho con.
Thằng Tám chạy vụt ra cửa, mười phút sau trở lại trên tay cầm một nắm rau dấp cá. Bà Sáu hỏi:
- Ở đâu vậy con?
- Con xin của thiếm Ba Xê kế bên nhà mình nè.
Nó lấy cối giã tiêu đâm mớ rau đó sau khi đã rửa sạch. Bà Sáu nhắc nên bỏ vào thêm chút muối, thuốc sẽ hiệu nghiệm hơn. Chú gà có cái chân trái bó rau dấp cá bằng miếng vải vụn được đặt vào cái hộp nhỏ. Hai cái chung đựng thức ăn trong đó cũng được thêm đầy gạo và nước. Thằng Tám ngồi quan sát một lúc rồi bỏ ra ngoài nhưng không quên đắp lên mình chú gà một miếng vải. Thỉnh thoảng nó trở vào thăm chừng, thấy chú gà còn sống thì an tâm đi làm việc khác.
Ngày kế tiếp chú gà đã đứng lên đi cà nhót chung quanh chiếc hộp nhỏ. Cái băng vải được giữ nguyên vì Bà Sáu khuyên không nên đụng tới trong vòng ba, bốn ngày. Ngày thứ ba chú gà đã ra khỏi hộp đi cà nhắc xuống bếp, chắc nó muốn thăm và cám ơn Bà Sáu. Bà cho nó một mớ cơm nguội. Chú gà đứng một chân thẳng một chân cong ăn ngon lành. Có lẽ chú nhớ món ăn đã thiếu vắng trong mấy ngày qua. Đến ngày thứ tư thằng Tám hỏi má mở băng cho chú gà. Bà nói:
- Để thêm một ngày nữa cho chắc. Má thấy nó đi chưa vững lắm.
- Chắc nó không có tật đâu phải không má.
- Không. Nó được băng bó nghỉ ngơi như vậy chắc sẽ lành lại như cũ.
Hôm mở băng vải ra, chỗ vết thương khô cứng. Thằng Tám phải nhúng thêm nước vào mới lấy ra hết được mớ rau dấp cá. Chú gà bước vài bước khập khiễng rồi từ từ bình thường trở lại. Thằng Tám khoái quá reo lên:
- A! Nó hết què rồi.
Ngày tháng trôi qua, chú gà đã trở thành một “chàng thiếu niên” tí xíu. Chú to cỡ cái nắm tay người lớn. Trên đầu có cái mào đỏ nhú cao cao. Lông vũ mọc đầy khắp cả thân, muốn tìm một cọng lông măng thì hơi khó. Chú không trú ngụ trong chiếc hộp đó nữa, nhưng cũng không đi đâu xa mà lẩn quẩn trong khung viên nhà ‘ông chủ nhỏ’. Nơi chú thường xuyên lui tới lúc ban ngày là khu nhà bếp. Chú cũng khôn thiệt! Chỗ đó có nhiều thức ăn, tha hồ mà mổ không phải mất công bươi bới tìm kiếm. Lúc rảnh rỗi chú lang thang ra phòng khách, chờ có ai vào nhà thì đi theo. Chú vẫn mê thích làm bạn với những bước chân người. Trời chạng vạng tối, chú nhảy lên nằm trên mấy thanh gỗ nối bốn cái chân bàn lại với nhau ngoài phòng khách rồi ‘phi’ luôn cho tới sáng. Ai đến ngồi bên bàn mà gác chân lên mấy thanh gỗ sẽ nghe chú kêu ‘chíp-chíp’ như muốn nhắc nhở: “Này, cẩn thận kẻo giẫm lên tớ đấy”!
Một buổi sáng đang chuẩn bị đến trường, má thằng Tám hỏi:
- Tám, sáng nay có nghe con gà ác gáy không?
- Dạ hông, nó gáy thiệt hả?
- Vậy là con ngủ mê không biết gì hết.
Đêm hôm đó, thằng Tám thao thức không ngủ được. Nó canh chừng để nghe chú gà ác gáy mấy tiếng đầu đời. Đến nửa đêm, nó ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Khoảng bốn giờ sáng thì giật mình tỉnh giấc. Nó dụi mắt ngóc đầu lên nhìn ra chỗ phòng khách. Trời vẫn còn tối nên không thấy gì. Lắng tai nghe ngóng, không có tiếng động nào. Nó không ngủ lại mà cố mở mắt nhìn lên nóc mùng. Gần góc bên phải có một núm thun khoanh cột chỗ bị rách để ngăn muỗi chui vào. Bên dưới, ngang mặt có thêm một núm khác. Nó đưa tay sờ lên chỗ đó, thấy sợi thun đã cũ nên dặn lòng sẽ thay sợi khác khi có dịp. Đang suy nghĩ lang mang chợt nghe tiếng lạch phạch như gió đập vào vách lá. Tiếp theo là tiếng – É. .é…e ngắn ngủn phát ra từ phòng khách. Thằng Tám giật mình ngồi chồm dậy nhìn ra phía trước. Cái bóng trắng của chú gà ác di động qua lại dưới chân bàn. Nó ngồi im trong mùng kiên nhẫn chờ đợi. Tiếng lạch phạch lại nổi lên. Lần này nó thấy rõ chú gà ác vung cánh quạt rồi rướn cổ phát ra mấy tiếng the thé ấy. Nó nhịn không được nên cười khì ra một tiếng, lẩm bẩm: “gà con gáy nghe mắc cười thiệt, làm tao mất ngủ cả đêm! Nó ngả người xuống nhắm mắt lại đợi trời sáng tỏ chuẩn bị đến trường.
Tiếng gáy của chú gà ác thay đổi dần theo thời gian. Cái âm thanh – Ò. ó..o.o. mỗi ngày nghe mỗi rõ ràng hơn, nhưng vẫn bị cắt ngắn ở phần cuối. Chú đi đứng cũng khác hơn lúc trước. Hai cánh hơi xệ xuống đất, bước đi chậm lại, cổ hay ngẩng cao nghiêng đầu nghe ngóng. Có một điều không thay đổi là chú vẫn giữ tật chạy theo bước chân người. Chú trở thành “người” quen thuộc trong nhà. Bạn các anh thằng Tám đến chơi hoặc tụ tập học hành nơi phòng khách, lần nào cũng được chú đến chào đón. Các anh ấy cũng “quen tật” đưa chân ra hất hất nó trả lễ. Lần này một anh đột nhiên kêu lên:
- Ui cha! Sao mổ đau vậy ta.
Anh nhìn xuống chân lấy tay xoa xoa đoạn hỏi chú gà ác:
- Sao mày cắn tao?
- Chân mày có dính cơm hay đồ ăn không? Một anh khác hỏi.
- Không.
Nói xong anh đưa chân ra hất chú gà ác. Chú lùi ra mấy bước rồi đứng khựng lại, đầu hạ xuống thấp nhìn thẳng vào bàn chân. Anh bạn nói tiếp:
- Ê, kênh hả mậy?
Rồi đưa bàn chân tới thách thức. Thình lình chú gà phóng tới mổ vào bàn chân của anh, hai cánh đập gió, hai cái cẳng nạp vô đó kêu ‘lộp bộp’. Mấy người bạn khác nhìn thấy cười sặc sụa:
- Chết mày chưa! Bị gà đá.
Anh này nổi quạu lột dép định phang cho chú một chiếc nhưng bị cản lại. Một anh nói:
- Tại mày chọc nên nó có phản ứng.
- Phản ứng? Ghê thiệt!
- Thôi, lần sau nhớ mà chừa.
- Tám ơi! Ra bắt con gà của mày đi chỗ khác. Anh thằng Tám kêu lên.
Nhưng chứng nào tật nấy, những lần trở lại sau đó các anh đều không quên chuyện chọc ghẹo chú gà ác. Mặc dù đã đề phòng trước, các anh vẫn bị lãnh vô chân vài cú đá của chú. Có khi cũng đau lắm.
Từ chỗ thân thích, những bàn chân đột nhiên trở thành kẻ thù của chú gà ác cô độc. Lúc trước chú chạy theo để làm bạn, bây giờ chú ghét cay ghét đắng đến độ phải ra tay “vũ phu” mổ, đá tơi bời. Người quen trong nhà cũng chịu cùng số phận. Chú chỉ tha cho “những bước chân âm thầm” hay bất động mà thôi. Mỗi lần thấy bóng dáng chú gần đâu đó, mọi người phải đi chậm lại hay đứng yên tại chỗ để khỏi bị ‘ăn mỏ và chân gà ác’. Sự thay đổi thái độ kỳ cục này làm phiền đến khách của ba má thằng Tám. Thời gian đầu, khách đến nhà bị chú tấn công phải la lên cầu cứu. Có người tưởng chú được huấn luyện để giữ nhà. Về sau má thằng Tám phải giữ chú ở nhà bếp hay gọi nó canh chừng mỗi khi nhà có khách.
Một hôm đang ngồi chơi với mấy con cá lia thia trong phòng, thằng Tám nghe anh gọi:
- Tám ơi, ra bắt con gà của mày vô nhà.
Nó chạy ra trước hàng hiên nơi anh nó và mấy người bạn đang ngồi đấu láo, dòm tới ngó lui rồi hỏi:
- Nó đâu rồi?
- Kìa. Anh thằng Tám trả lời và chỉ tay ra ngoài đường.
Thằng Tám nhìn thấy chú gà ác đang rượt theo một người bộ hành hớt hải chạy phía trước. Nó chạy tới ôm chú gọn trong tay, trở vào nhà hỏi:
- Nó rượt theo người ta làm gì vậy anh?
- Mầy còn hỏi, để đá chân chớ làm gì.
- Cả gan! Dám mò ra ngoài này.
Nó mắng con gà rồi mang ra sau bếp, dặn dò:
- Mày ở đây, không được ra ngoài đường nữa nghe.
Chú nào biết ông chủ nhỏ nói gì! Ngày hôm sau đi học về thằng Tám đã thấy chú ngoài sân với bọn con nít trong xóm. Mấy đứa bạn thằng Tám thật quỷ quái. Chẳng biết tin tức từ đâu đưa tới mà chúng kéo nhau đến để xem chú gà ác rượt đá chân người. Chú gà ác đang ở giữa sân trước nhà, còn tụi nhóc chia ra đứng mấy góc. Chúng thay nhau đổi chỗ chạy qua, chạy lại. Chú gà hăng máu rượt theo mấy bước chân đó. Có đứa giả bộ chạy không kịp dừng lại nửa đường, đưa chân ra cho chú “nạp-kê” mấy cái. Hơi đau một chút nhưng nhằm nhò gì. Chúng được những trận cười thích thú với trò chơi mới.
Thằng Tám nhảy tới ôm chú gà lên, quay lại thụi một cái vào thằng bạn đang đưa chân đá lại chú gà. Nó phản đối:
- Ê, chơi gì kỳ vậy.
- Con gà của mày vui thiệt. Ngày mai cho tụi tao mượn được không?
- Không! Tụi mày còn chọc, nó chết tao bắt đền đó.
Chúng đâu dễ buông tha cho chú gà vì lời hăm dọa của thằng Tám. Cách mấy hôm, chúng lại đến bày trò chơi cũ. Thằng Tám phải nhọc công canh chừng xua đuổi.
Chú gà đã quen thói, ngày nào cũng léng phéng ra trước sân. Không biết chú mong chờ lũ con nít trong xóm đến chơi hay muốn ngắm cảnh ‘ông đi qua bà đi lại’. Những lúc thằng Tám không kịp lùa nó trở vô nhà thì anh nó và mấy người bạn ra ngồi trước hàng hiên để dòm chừng – theo lời mấy anh nói. Thường thường người đi đường bỏ chạy để tránh bị chú mổ hay đá. Chú mất hứng nên quay trở lại, lẩn quẩn trước sân. Các anh nhìn cảnh ấy như một trò tiêu khiển và ít khi can thiệp. Khúc phim đó cứ tái diễn cho đến một buổi chiều đẹp trời. Sau giờ tan trường, một nhóm nữ sinh trung học đi ngang. Những tà áo dài trắng thướt tha bay lượn trong gió theo nhịp bước của các nàng tiên trẻ đẹp. Hình ảnh nên thơ và đáng yêu làm sao! Thảo nào các anh của thằng Tám cứ mượn cớ ra ngồi ngoài hàng hiên hàng giờ. Chú gà ác cũng ngứa mắt ngẩng đầu chiêm ngưỡng. Chợt nhận ra ánh mắt chọc ghẹo của những chàng trai, các tiên nữ thẹn thùng nhanh bước. Thật tai hại! Chú gà ác chỉ chờ có thế là phóng theo những bước chân vội vàng ấy. Nó trổ nghề mổ, đá lung tung. Các cô hoảng hốt, vừa la hét vừa chạy. Mấy đôi guốc rơi rớt lại phía sau. Đây là cơ hội để các chàng hiệp sĩ ra tay hành hiệp! Các anh chạy ra nhặt guốc mang trả cho người đẹp và không quên tán tỉnh:
- Em có sao không? Để anh mang guốc lại cho em.
- Dạ thôi, cám ơn anh.
Các cô thẹn thùng đáp lại, đôi má đỏ hồng như những trái mận vừa chín tới. Các anh vui được làm quen với người đẹp nhưng đã vội quên đi cái “người” đưa đường dẫn lối. Chú gà bị mắng cho một trận vì tội làm người đẹp sợ hãi, và tống một mạch ra sau nhà bếp. Chú trở thành mối lo và trở ngại cho các cô nữ sinh trung học khi phải đi ngang nhà thằng Tám. Sau hôm đó, mỗi khi về gần đến nhà thằng Tám các cô dừng lại ngó dáo dác. Nếu thấy chú gà ác “lởn vởn” ngoài sân, các cô tháo guốc dép cầm tay rồi một, hai, ba vụt chạy qua. Thỉnh thoảng có cô mới đi ngang lần đầu không đề phòng, lại giật mình sợ hãi cái chú gà ác kỳ cục. Các anh và mấy người bạn lại có dịp cười đùa vui thích - không hiểu vui và thích ở điểm nào nhỉ?
Chú gà ác không còn lẩn quẩn trong nhà như những ngày “thơ ấu”. Chỗ mà chú ưa thích bây giờ là hàng hiên và sân trước. Từ khi lỡ chân bước ra ngoài, chú đã khám phá ra nhiều điều thú vị mới. Chắc chú đã hiểu được thế nào là “Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với thằng Tám biết ngày nào khôn!” Chú đã cao lớn hơn như một “chàng trai trẻ”, nhưng vẫn giữ được phong độ của họ hàng nhà tông. Tuy thân hình chỉ bằng một nửa họ gà tàu, chú cũng ra vẻ oai phong hùng dũng. Bước đi của chú bệ-vệ như một chủ tướng duyệt hàng quân, hai cánh xệ gần bết đất, mặt đỏ hơn người say rượu, tiếng gáy kéo dài với giọng kim cao vút. Mỗi khi có tiếng nổ lớn của xe gắn máy chạy ngang nhà, chú đứng lại ngẩng cổ lên và cục tác liên hồi. Có lẽ đó là dấu hiệu báo động cho đồng loại đề phòng khi có biến; hay là chú cũng hoảng sợ giật mình kêu ré lên như những người có tật nói lắp. Nhưng đồng loại của chú ở đâu? Chú có thắc mắc gì về điều đó không? Chú phiêu lưu tìm kiếm ở bên ngoài cả tháng nay rồi, có thấy “ai” giống như mình chưa? Tội nghiệp chú! Đã đến tuổi “cập-kê” mà vẫn chưa tìm được bạn. Những thắc mắc, suy tư ấy chắc đã ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày của chú. Chú đâm ra biếng ăn – hay là không tìm được nhiều thức ăn như ở nhà bếp – nên trở thành gầy gò, xơ xác.
Một buổi chiều tan trường về – sao lúc nào cũng có chuyện xảy ra sau giờ tan trường nhỉ? Vì đó là lúc thằng Tám có mặt ở nhà, chơi đùa với chúng bạn mà. Chuyện gì đã xảy ra? À nhớ rồi. Nó thấy đám con nít đang tụ tập thành vòng tròn gần một bụi cây bên hông nhà. Chắc lại có trò chơi mới? Nó vội bước, chen vào xem ké. Vừa ló đầu vô nó nhìn thấy bóng hai con gà trống đang vung cánh, chỏi chân vào nhau giữa không trung. Thì ra tụi bạn đang coi đá gà. Sau khi hạ cánh đứng trên mặt đất hai con gà lùi lại thủ thế, chân trước chân sau. Chúng dựng bộ lông mã che quanh cổ xòe ra như cái quạt nho nhỏ, đầu hạ thấp gần sát đất lắc qua bên phải rồi trở lại bên trái. Bốn mắt nhìn nhau không rời một giây. Chúng đang tìm kiếm chỗ hở của kẻ địch để tấn công. Một con có bộ lông màu vàng chen lẫn với màu đen mà người ta hay gọi là “gà chuối”. Máu đỏ bê bết từ cổ xuống mình và hai cánh. Con gà này đang trong thời kỳ mới lớn nên lông mã chưa mọc đều đặn hết thân. Tướng dềnh dàng, chắc loại gà tàu. Còn con gà kia nhỏ hơn, chỉ bằng hai phần ba con gà chuối. Bộ lông màu trắng cũng đẫm máu lốm đốm khắp nơi. Hai cái chân màu xanh đen. Ủa, Sao lại màu xanh đen! Thấy quen quen. Thằng Tám dụi mắt nhìn kỹ lại một lần nữa. Thôi đúng rồi! Con gá ác. Nó kêu lên:
- Trời đất! Ai cho tụi mày bắt gà tao đi đá?
- Không có, tụi tao thấy gà đá nên bu lại coi mà thôi.
- Hai con gà gây chiến với nhau từ phía bên nhà thiếm Ba Xê rồi đá lần lần tới đây. Một đứa bạn khác lên tiếng.
Thằng Tám định bước tới can thì hai con gà đã lao đầu vào nhau, chân đá liên hoàn cước về phía bên kia nghe lịch-bịch. Chú gà ác lùi lại mấy bước sửng vững đoạn quay đầu bỏ chạy. Con gà chuối đuổi theo. Nhưng chỉ mấy bước, chú gà ác thình lình quay lại tấn công đối phương mấy chiêu liền một lúc. Tụi nhỏ la lên:
- Đòn “hồi mã thương”, độc thiệt.
- Là cái gì? Thằng Tám hỏi.
- Là giả bộ thua để địch thủ không phòng hờ, rồi bất ngờ trở lại đánh.
Chú gà ác lại bỏ chạy tiếp. Thằng Tám nhào tới ôm lên, cảm thấy hơi thở của chú dồn dập xuyên qua cái ức phập phồng. Đám con nít kêu:
- Ê Tám, để nó đá nữa coi. Đang hay mà mầy lại can.
- Gà của mầy chưa thua mà.
- Trước sau gì cũng thua. Con gà tàu lớn hơn gà tao nhiều, không cân xứng.
Nó lên tiếng và tiếp tục ôm chú gà ác đi trở về hướng sân nhà. Con gà chuối chưa chịu buông tha, lẽo đẽo theo sau. Thằng Tám quay lại, nhíu mày co chân đá cho con gà một cái – bịch. Con gà chuối bay ngược về phía sau, cục tác mấy tiếng như muốn nói: Mắc mớ gì tới ông! Tại sao đá tui? Đột nhiên nó quạt hai cánh thật mạnh rồi rướn cổ lên gáy một tràng dài như đang hát bài ca chiến thắng. Chú gà ác được ông chủ nhỏ đem ra sau nhà, gần bếp để tắm rửa. Cái mào bị rách lủng nhiều nơi, máu tiếp tục rỉ ra ngoài. Trên cổ và ức cũng bị mấy vết thương. Thằng Tám lấy lá bông mười giờ đập dập trét lên mấy vết thương ấy. Đó là cách nó thường làm khi bị đứt tay. Chú gà ác run bần bật vì lạnh mặc dù đang đứng phơi nắng sau hè. Sau hôm đó chú bị thằng Tám cột chân dưới bàn ăn, “cấm trại” mấy ngày liền.
Hôm tháo dây cho chú gà, thằng Tám dặn dò: “Không được ra ngoài đá lộn nữa nghe chưa. Lần sau tao nhốt mầy luôn đó.” Hai ngày kế, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến ngày thứ ba, chú từ phía nhà thím Ba Xê hớt hải chạy vô nhà, máu đẫm từ đầu cổ xuống tới lông cánh. Thằng Tám chận lại, ôm chú lên và mắng: “Rồi, lại ôm đầu máu về. Tao biết mầy đá không lại mà, đồ ngu!” Nó bỏ chú xuống, chạy ra phía nhà thím Ba Xê. Con gà chuối ấy đang đứng kênh kiệu ra điều đắc thắng. Nó cúi xuống hốt một nấm đất ném vào con gà tới tấp. Con gà chuối thối lui và chạy qua khỏi nhà thím Ba Xê. Nó đuổi theo, tặng cho con gà thêm mấy cục đất thật to. Con gà cục tác mấy tiếng, cong đuôi chạy đi mất dạng. Nhờ ông chủ nhỏ tiếp tay đánh đuổi, con gà chuối không còn léo hánh trở lại gây chiến với chú gà ác nữa.
Cuộc sống của chú gà ác trở lại bình thường như những ngày tháng cũ. Chú vẫn cô đơn, độc hành. Bạn duy nhất của chú vẫn là thằng Tám. Chú vẫn chơi đùa với những bước chân “âm thầm” và nghịch ngợm với người vội vã. Chú vẫn đem niềm vui đến cho “người lớn” và tiếng cười cho lũ trẻ con phá phách. Sau mấy trận đánh bất xứng với kẻ địch, bộ lông trắng của chú pha thêm chút màu vàng đất. Sự thay đổi đó tô điểm cho chú một dóc dáng phong sương từng trải. Nhưng sự thật chú vẫn còn là “con trai” mới lớn. Môi trường sống ngộ nghĩnh đã giữ chân chú thành một “thầy tu bất đắc dĩ ”! Thằng Tám cũng đâu biết gì hơn. Nó không bao giờ nghĩ tới chuyện tìm cho chú một ‘cô gà ác’.
Hết Xuân rồi tới Hè, mới đó mà đã sang Thu. Lá vàng rơi từng chiếc như những cánh bướm lượn theo cơn gió thoảng. Màu trời trở nên ảm đạm, che phủ bởi nhiều áng mây xám bàng bạc. Cái oi bức của mùa Hè đã qua đi nhường chỗ lại cho khoảng không gian dịu mát của mùa Thu. Theo sự vận hành của Tạo Hóa, con người cũng tiến bước với dòng thời gian. Học trò đã trở lại trường mấy tuần trước sau những tháng ngày tạm biệt đèn sách. Thằng Tám bắt đầu niên học mới đầy bận rộn của chương trình lớp nhất. Năm nay là thời điểm thử thách trong bước đường học vấn. Cuối năm nó phải tranh đua với gần hai ngàn thí sinh từ khắp nơi trong tỉnh lỵ về tham dự cuộc thi tuyển vào lớp đệ thất. Trường trung học chỉ mở ra ở thị trấn và có vỏn vẹn bốn lớp đệ thất, đầu chương trình trung học đệ nhất cấp mà thôi. Mặc dù bận rộn, nó vẫn không quên mấy con cá lia thia và chú gà ác thân thiện. Nó cố dành một ít thời giờ săn sóc và nhất là cung cấp thức ăn cho chúng.
Sau một ngày mệt mỏi vì những bài toán đố hóc búa, hôm nay thằng Tám trở về nhà với hy vọng tìm được sự khuây khoả bên cạnh những trò giải trí cỏn con. Nó liệng cái cặp lên giường ngủ rồi nằm dài, nghiêng mặt nhìn mấy con cá lia thia đá bóng. Chúng vẫn đẹp, tung tăng giương kỳ khoe sắc. Nó chợt nhớ tới chú gà ác nên ngồi dậy nhìn ra trước hàng hiên. Không thấy chú ở đó. Mấy người anh cũng vắng bóng. Nó đi vào trong bếp. Chưa đến nơi đã nghe má gọi:
- Tám, lại đây má biểu.
- Dạ, má thấy con gà của con đâu không?
- Vô đây.
Thằng Tám giật mình thấy chú gà ác nằm sóng soài nơi gốc bếp, cạnh cửa đi ra sau vườn. Nó hỏi giọng run run:
- Con gà... con gà... sao vậy?
Không chờ má trả lời, nó vội chạy tới đưa tay sờ soạng. Chú gà nằm yên không nhúc nhích. Bà Sáu lên tiếng:
- Nó chết rồi con à.
- Sao vậy má? Nó mếu máo.
Bà Sáu kể: “Lúc xế trưa con gà vẫn còn chơi ở trước sân. Có một đám học trò con trai đi xe đạp chạy ngang. Con gà quen tật chạy theo mấy bàn chân đang đạp xe. Chiếc xe đầu tránh được nó, nhưng mấy chiếc sau thì không. Con gà bị ba, bốn chiếc cán lên cổ, lên mình và cả hai cái chân, chỉ kịp kêu lên mấy tiếng rồi giãy chết. Mấy anh con thấy mà không làm gì được. Tụi nó đem con gà vô đây cho má đó.” Thằng Tám cảm thấy có vật nhọn đang đâm vào trong bụng mình. Nó sờ đầu chú gà nơi có vết máu đậm, vuốt lần xuống hai cánh, cảm thấy hơi ấm toát ra từ thân hình ấy nên hỏi với chút hy vọng:
- Có cách nào cứu không má?
- Nó chết đã gần nửa giờ rồi con.
Thằng Tám ngồi yên lặng, tay vẫn không rời thân xác chú gà mà nhớ lại những ngày chơi đùa với chú. Nhớ từ lúc chú mới nở ra khỏi vỏ cho đến từng giai đoạn trưởng thành. Một lúc sau nó ngước lên nhìn Bà Sáu, ngập ngừng:
- Má,
- Sao con?
- Má đừng làm thịt nó, cho con đem đi chôn nghen.
Bà Sáu Quân nhìn thằng con thứ tám một lúc rồi gật đầu nói nhỏ:
- Ừ, con đem nó đi chôn đi.
- Dạ.
Thằng Tám gói chú gà trong tờ giấy báo cũ, xách xẻng đi ra phía sau vườn. Đến một gốc cây khá to cách xa nhà cũng độ vài chục thước, nó lui cui đào lỗ. Được khoảng hai gang tay, nó bỏ chú gà xuống định lấp đất nhưng chần chờ một giây rồi lấy lên tiếp tục đào bới. Chung quanh nhà có mấy con chó hay đi lêu lổng kiếm ăn, nó sợ chúng đánh mùi được và moi móc. Thêm một gang tay nữa, nó yên tâm bỏ chú gà xuống. Sau khi lấp đất lại và cẩn thận dùng cái xẻng nện cho cứng, nó đùa thêm một ít đất để nơi đó nhô lên như cái nấm mộ nhỏ. Nó ngồi thinh lặng bên cạnh cái nấm đất, mắt hướng về phía chuồng gà, nơi chú gà ác ra đời. Một lúc sau nó quơ tay nhặt một nhánh cây khô vẽ lăn quăn trên mặt đất. Không biết đó là những chữ gì. Có lẽ đó là lời cuối giã từ chú gà xấu số.
hatkacê
|