chuyện ma của bác khảm rỗ
Tôi là một con chiên ngoan đạo, mỗi sáng Chủ Nhật tôi đều đi nhà thờ. Tôi không cầu mong để được lên nước Thiên đàng, và cũng biết sợ phải sa Hỏa ngục! Tôi chỉ cầu xin mình được ở giữa chốn lưng chừng cho nó mát mẻ, ngó lên thì thấy Thiên cung, và nhìn xuống thì thấy Địa ngục. Thử tưởng tượng và so sánh cuộc sống đời sau của thiên hạ sẽ như thế nào, và không chừng tôi thấy ở phía dưới lại vui hơn, và đâm ra hối hận vì đã tốn nhiều thì giờ ép xác để tâm hồn mình được thánh thiện lúc ở trần gian! Sống để được lên trên Thiên Đàng sao nó cực khổ quá. Còn sống cái kiểu như tôi, ăn tục nói phét, chọc cho chúng chửi hằng ngày, chắc chắn là chầu Diêm vương rồi. Chính vì tôi còn được chút niềm tin nơi Thiên Chúa nên tôi không tin dị đoan, và chỉ hơi hơi sợ ma. Tuy nhiên qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, một vài sự kiện huyền bí đã đến với tôi, và chắc là tôi phải suy nghĩ lại về vấn đề này.
Hồi còn bé, tôi học tiểu học tại trường Lasan Qui nhơn. Mỗi ngày phải học 1 tiếng về giáo lý nên tôi rành Phúc Âm như đào Bạch Tuyết rành 6 câu vọng cổ. Tôi nghịch như “giặc”, và gần như không biết sợ ma là gì. Tôi đã từng chứng kiến một người thợ của ba tôi, ra khu nghĩa trang phía trước nhà đi cầu lúc nửa đêm, đã bị ma dẫn đi tới sáng mới thả về, hai con mắt đỏ lên, và người lạnh run lập cập. Nhưng tôi vẫn không tin là anh đã bị ma dẫn đi.
Năm tôi học lớp đệ Lục, bố tôi làm ăn bị thất bại, gia đình phải dọn ra thị xã Bồng Sơn, Bình Định, để làm lại từ đầu. Tôi bất đắc dĩ phải ghi tên theo học trường Bồ Đề vì đó là ngôi trường tư duy nhất trong thị xã, và trường lại cũng có 1 giờ về Phật học nên tôi biết thêm về 1 đạo pháp khác nữa.
Bố tôi mua 1 căn nhà nhỏ nằm ở cuối con đường chính để mở cơ sở làm ăn. Hai bên nhà là 2 đám ruộng nhỏ, bên kia đường có 1 cây đa to với cành lá xum xuê, mấy năm trước đã có 1 cô gái thắt cổ tự tử. Thuở ấy chưa có đèn đường, nên khu vực này vào ban đêm thì tối đen như mực. Một hôm tôi đi học lớp Hè vào ban đêm về, khi gần đến nhà tôi thấy loáng thoáng như có 1 bóng người thắt cổ đang đung đưa tại cây đa, tôi quên mất béng là tôi không sợ ma, và tôi sợ quá hoảng hồn chạy 1 mạch về nhà, cái quần ướt nhẹp! Qua hôm sau tôi bình tĩnh lại, tôi nghĩ chắc mình bị cái ấn tượng về chuyện cô gái thắt cổ trong đầu nên mình tưởng tượng như thế chăng? Tôi cũng hơi ớn nên không đi học lớp Hè vào ban đêm tiếp.
Tháng sau bố tôi di chuyển gia đình lên nhà ở khu giữa phố, ngay bên cạnh rạp hát. Mỗi lần có gánh hát cải lương về, bà bầu gánh thường mướn căn nhà ở ngay kế bên để cho đào kép ở trong thời gian trình diễn tại thị xã. Tôi thường lân la làm quen với họ, và về đêm họ thường dẫn tôi vào hậu trường sân khấu để coi họ thoa son dồi phấn. Tôi không thích coi cải lương nên hay đi lang bang ra ngoài khu hàng ghế đứng của khán giả để chọc phá thiên hạ. Ghế đứng là thế nào? Khi bán hết vé, họ lấy tiền mặt cho khán giả vào coi, nhưng chỉ được đứng ở phía cuối rạp. Có một lần tôi thấy 1 ông già râu tóc bạc phơ đứng ngay phía sau 1 cô gái chừng đôi mươi. Tôi lấy cây kim băng gài ở túi áo ra và chích mạnh vào đít ông ta 1 cái. Có lẽ tôi mạnh tay quá, ông la toáng lên "tờ quơ" (trời ơi), ông hảy cái phần hạ bộ của ông ra phía trước, và đẩy cô gái té nhào vào hàng ghế trước mặt. Ông hoảng hốt lật đật kéo cô đứng dậy và cười gỉa lả. Cô quay lại, trợn tròn con mắt, dang thẳng cánh tay, và tát ông một cái bốp rồi la lên: “Cái thèng giờ dê, lồm sô kỳ thẹc” (cái thằng già dê, làm sao kỳ thiệt). Nghe ồn ào, đám khán giả chung quanh nhìn ông, cười thoải mái chế diễu. Ông già tình ngay lý gian quay lại tìm xem thằng nào đã chơi mình như vậy? Tôi đã cẩn thận “lủi” ra xa từ khi nào, nên ông ta không thấy. Tay ông ôm mông đít, vừa đi ra khỏi rạp vừa chửi: “Cái mở chơ thèng nồ lồm ông” (cái mả cha thằng nào làm ông).
Thị xã Bồng Sơn nằm trong quận Hoài Nhơn, Bình Định, là một thị xã nhỏ và không có nhà thờ, chỉ có 1 nhà nguyện nhỏ, thỉnh thoảng mới có cha về làm lễ. Mỗi tuần đi lễ, tôi phải đạp xe hơn 4km để đi nhà thờ tại Mộ Đức. Tôi không hiểu tại sao, cái nơi đìu hiu vắng vẻ, lại có 1 cái nhà thờ xây rất kiên cố, rất to, và rất đẹp. Cha xứ tên là Trịnh Hoài Ân, sau này ông về làm cha xứ chánh tòa tại nhà thờ Qui Nhơn. Ông thấy tôi siêng năng đi lễ nên rất thích, và năm sau ông đặc cách cho tôi được trông coi nhà nguyện tại Bồng Sơn. Ông đâu biết rằng bố tôi đã bắt tôi phải đạp xe đi xem lễ, nếu không thì sẽ có mấy cây roi vào đít!
Nhà nguyện nằm ở ngay kế bên cạnh nhà xác của bệnh viện trong thị xã, và từ trước đến giờ không ai trông coi. Thỉnh thoảng mới có lễ vì ở đây chỉ có 12 gia đình công giáo, và gia đình tôi nữa là tổng cộng 13. Từ đó mỗi tối bố tôi bắt tôi mỗi ngày vào lúc 7 giờ 30, đánh trống cho bổn đạo tới đọc kinh. Chừng 1 tiếng sau thì tan hàng, và tôi phải đóng cửa trước khi đi về. Một đôi khi vào ngày chủ Nhật, Cha có về làm lễ. Tôi với 2 cô nữa lãnh nhiệm vụ hát lễ. Họng tôi rống to nhất, mà cũng hát giọng bá láp nhất. Sau này khi giọng tôi bị bể ra, và làm cho tôi như hát theo bè vậy, không giống ai, nhưng có vẫn còn hơn không ở cái thị xã đèo heo hút gió này.Tuy vậy cũng chẳng có một ai chê tôi, và mọi người đều thương tôi hết. Tôi khoái nhất là những lúc được theo Cha đi đưa đám ma, và nhất là khi này tôi đã bắt đầu trổ mã. Sau khi Cha làm phép xác xong, bắt đầu hạ huyệt là tôi tới gần, kiếm cô nào vào cỡ tuổi của tôi hoặc lớn hơn chút đỉnh và có đủ 3 vòng càng tốt. Khi thấy cô ấy khóc lóc, làm như muốn đòi nhào xuống hố, là tôi vòng tay ôm chặt lấy. Cô nào càng gào thét và đòi lao xuống hố chừng nào thì tôi càng ôm chặt cứng chừng đó. Tôi cũng không ngu dại gì mà kéo cô ra xa khỏi huyệt. Kéo ra xa thì phải
buông cô ra thì thật phí của "giời". Đứng gần tại huyệt, cô ấy lắc qua lắc lại vật vã, thì tôi cũng phải lắc qua lắc lại theo.
Một buổi chiều tôi thấy Cha lái xe từ Mộ Đức chạy về nhà nguyện ở tạm. Tôi ngạc nhiên hỏi người tài xế và cũng là người giúp việc cho Cha là: “Có chuyện gì vậy?” Anh ấy nói là Cha có 1 sợi dây chuyền có hình trái tim bằng bạc. Chiều chiều Cha đưa nó lên trước mắt hướng về phía núi, nằm hướng phía sau nhà thờ Mộ Đức. Cha tĩnh tâm nhìn vào nó không chớp mắt chừng một vài phút. Khi Cha thấy có linh cảm một điều gì không tốt thì kêu anh lái xe đưa về Bồng Sơn ngủ qua đêm. Anh nói cứ 10 lần đi trốn như thế thì có ít nhất 2 lần Việt Cộng đã mò về Mộ Đức để tìm giết Cha. Lúc đó khoảng năm 1961, tuy mới 14 tuổi đầu nhưng tôi cũng chỉ hiểu đại khái về Việt Cộng như vậy thôi. Tôi không hiểu tại sao họ lại kiếm Cha để mà giết, trong khi tôi đi học trường Bồ Đề, thì đã không thấy mấy Sư than vãn điều gì cả.
Thỉnh thoảng tôi cũng có nghe tiếng súng đì đùng nổ phía xa xa của lính Địa Phương Quân, nhưng tôi cũng đã không thắc mắc lắm. Năm sau mẹ tôi bị hư thai, bà bị băng huyết. Tôi đạp xe lên xin Cha xuống xức dầu cho mẹ để chờ chết. Cha đến nơi, làm phép xong xuôi, bèn lấy sợi dây chuyền trong cổ ra. Lần đầu tiên tôi mới thấy sợi dây chuyền này. Nó cũng chỉ là một sợi dây chuyền bình thường, nhưng có thêm một hình trái tim bằng bạc, và có vẻ hơi nặng. Cha cầm sợi dây, hướng ra trước mặt về phía mẹ tôi. Gương mặt trầm ngâm như đang thôi miên vậy. Khoảng 5 phút sau ông nói với tôi:” Mẹ con chưa chết đâu”. Ông ghi cho tôi 1 số loại cỏ dại, tôi còn nhớ có cây trái cò ke, cây hoa mắc cỡ... Giã nát ra, tất cả bỏ vào cái siêu vẫn dùng để nấu thuốc Bắc, và nấu cho mẹ tôi uống. Ông còn dặn thêm khi nào khỏe thì đưa vào nhà thương tỉnh để họ chữa cho khỏi hẳn. Cả hai lần như vậy, ông đều làm như thế và cũng nói là mẹ tôi không chết đâu, và đúng như thế.
Sau đó bố tôi dọn lên Pleiku làm ăn. Tôi đang học dở dang lớp đệ Tứ, nên bố để tôi lại Bồng Sơn, trọ ở quán cơm của một người quen để tiếp tục học thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Ông chủ quán có 1 lô mấy cô con gái. Cô lớn nhất mới 20 tuổi, rất đẹp, đang có người yêu là 1 vị Thiếu úy đại đội phó Địa Phương Quân tại quận. Anh cao ráo, đẹp trai, rất xứng đôi với cô. Còn lại 3 cô nữa. Tôi chỉ nhớ mặt cô em thứ 3 mà ông chủ quán có ý muốn dành cho tôi. Tôi tự biết mình xấu trai, chính tôi cũng còn chán tôi mỗi khi ngắm nghía hình mình trong gương, nhưng không biết tại sao ông lại chấm tôi nữa. Chắc ông thấy tôi hiền, ngoan đạo, và có vẻ học giỏi chăng? Nhưng ông ấy đã lầm to, vì đâu biết tôi nghịch như một con quỷ và đang đội lốt con cừu non! Chúng tôi 4 người ăn cơm chung mỗi ngày. Hai người kia ăn uống thật tình, chỉ có tôi với nàng vừa ăn vừa run, chẳng ăn được bao nhiêu. Hay nàng sau đó đã vào buồng "đá" thêm vài chén nữa chăng? Còn tôi thì chỉ biết xách "bộ đồ lòng" đi tới quán chú Ba, xực thêm tô hủ tiếu. Nàng tên là gì tôi cũng không biết, chỉ biết rằng nàng không còn đi học nữa, và ở nhà giúp bố trông coi quán. Vậy mà cũng có 1 hôm nàng cầm quyển sách vào hỏi bài tôi! Trong phòng không có ghế nên nàng đứng ngay bên cạnh tôi ở bàn học. Nàng khéo léo khép nhẹ cánh cửa, lại bàn học của tôi và chìa quyển sách trước mặt tôi nhờ chỉ bài, và như cố ý đụng chạm vào người tôi. Mắt tôi mờ đi vì những ý tưởng đen tối, chân tay tôi cảm thấy thừa thãi, tôi cảm thấy hoảng loạn khi biết chỉ có hai đứa trong phòng. Nàng mới tắm xong, tóc ướt mượt và hương thơm mùi sà bông cô Ba tỏa ra khắp phòng. Tôi cảm thấy hai tay tôi lạnh ngắt, người tôi run lên bần bật, cái ghế tôi ngồi đã cũ, kêu lên kẽo kẹt theo cái lắc của thân hình tôi. Lúc đó, tôi chỉ biết nhắm mắt, bởi thấy lòng mình có cái gì nó cứng ngắc, đang hành hạ thân xác tôi. Trai mới lớn gặp cái cảnh này ai mà cũng chẳng như tôi! May qúa vừa lúc đó có tiếng xe nhà binh chạy rầm rộ ngoài đường, nàng chạy ra coi chuyện gì. Tôi đâu dám đứng lên vì tôi đang mặc có độc một cái quần đùi thôi. Tôi coi đồng hồ, đã hơn 10 giờ đêm nên tắt đèn đi ngủ.
Tôi đang say ngủ, thì nghe tiếng nổ của đủ mọi thứ súng rất xa. Tôi nhìn đồng hồ mới có 2 giờ sáng. Tiếng súng nổ suốt đêm, tôi nằm 1 lúc rồi lại thiếp đi, ngủ tiếp. Sáng dậy, tôi thấy cô chị cả đang ngồi khóc tức tưởi và các cô em cũng nước mắt lưng tròng. Bố nàng cho tôi biết là vị thiếu úy, rể tương lai của ông đã đền nợ nước tối qua. Đại đội Địa Phương Quân đã bị VC phục kích, chết và bị thương rất nhiều. Tôi vào nhà thương coi cho biết thế nào là hậu qủa của chiến tranh. Hình ảnh những người thương binh làm tôi bỏ cơm mấy ngày. Tuổi thơ tôi bắt đầu là mùi vị của thuốc súng, của máu, của nước mắt, của hận thù, của những vành khăn tang và của những mảnh đời mồ côi do chiến tranh để lại! Tôi đã thấy con đường tương lai của tôi trước mặt. Một
cỗ quan tài phủ lá quốc kỳ. Hình ảnh này đang diễn ra thật buồn thảm trước mặt tôi đây. Buổi chiều hôm ấy, lính đem về mấy xác Việt Cộng, để tại sân vận động cho đồng bào coi. Nhìn bộ bà ba đen, đôi dép râu của mấy cái xác VC, và tôi đã tự hỏi là lính của miền Bắc như thế này sao? Nhà nước anh nghèo “sặc máu”, quần áo trận không có, mà mấy anh vào đây đòi giải phóng những người cơm no áo ấm như chúng tôi sao? Kể từ đây tôi không còn có được sự hồn nhiên của tuổi trẻ nữa, lúc nào tôi cũng tư lự, mong tìm được một con đường sống trong chiến tranh. Cũng may, khi tàn cuộc chiến tôi vẫn chưa được các người lính mang "dép râu" cho vào quan tài đóng nắp. Tuy chúng chỉ cho chúng tôi vào nằm chơi cho biết mùi, hù dọa để tẩy não chúng tôi qua hình thức của các trại tù cải tạo thôi. Đời đã có những niềm đau chịu không nổi, thà chết có lẽ còn sướng hơn. Cái thằng không biết chữ dạy khôn cho những ông đã tốt nghiệp đại học. Toàn là nói nhăng nói cuội. Từ thằng lớn xuống đến thằng bé, chỉ nói có chung 1 bài bản, luận điệu như nhau và cứ nhai đi nhai lại rả rích hết ngày này qua tháng nọ. Đôi khi mình phải tưởng tượng đang vào nhà thương điên, cho mấy thằng điên nó xổ bầu tâm sự, và mình mới cảm thấy thanh thản mà sống. Còn nghĩ ngợi nhiều sẽ tức hộc máu ra mà chết thôi!
Chết dưới tay bọn “cán ngố” này thì qủa thật cũng không có quan tài. Khi nhập trại học tập "10 ngày cà lâm...” bọn chúng phát cho tù nhân cải tạo những tấm nylon được ta dùng làm bao cát để thay chiếu mà nằm, và chết rồi thì bạn bè đã lấy nó dùng để quấn xác lại đem chôn. Phải gọi những trại tù cải tạo là những trại hành xác mới đúng. Chết mà bó chiếu cái kiểu này gọi là chết giờ thứ hai mươi mấy của cuộc chiến đây?
Tôi may mắn được kêu về lại Trảng Lớn, để cho chúng vỗ béo trước khi thả về. Chúng muốn trấn an dư luận đang xôn xao hơn 1 năm qua về những thân nhân đang bị tù cải tạo của họ. Tôi đã chứng kiến 1 trường hợp rất thảm thương. Anh là một trung úy dược sĩ biệt phái. Khi đi trình diện học tập đã không biết có ai mách nước gì cho anh, mà anh mang theo 1 thùng sữa Guigoz. Anh tiết kiệm mỗi tháng chỉ uống 1 lon thôi, mặc dù anh không nuốt cơm được. Thân thể mỗi ngày 1 còm cõi. Về lại Trảng Lớn thì anh cũng vừa hết thùng sữa. Mặc dù khẩu phần ăn vỗ béo rất ngon so với những ngày còn ở trong những trại tù trong rừng trước, có cá có thịt hàng ngày, nhưng anh vẫn không ăn được. Qua tuần sau thì anh kiệt quệ thấy rõ, mắt mờ không thấy gì nữa. Nếu mấy thằng cán ngố du di cho anh về trước hay cho tiếp tế thì anh đâu chết. Đàng này chúng cứ để mặc kệ anh, không ăn thì chết ráng chịu, chẳng có giải pháp cấp thời nào hết. Hai tuần sau thì anh chết. Ban chỉ huy trại vội vã cho bó chiếu đem chôn gấp rút, với lý do sợ lây bệnh. Họ nói anh chết vì bệnh truyền nhiễm. Thật là khốn nạn! Bốn ngày sau thằng tiểu đoàn trưởng không biết đã nhận được lệnh từ đâu, hắn nói tiểu đoàn có kiếm được mấy tấm ván, đã đóng cho anh được cái hòm. Hắn kiếm người tình nguyện để lấy xác anh lên, liệm vào hòm và chôn lại. Ngoài người bạn thân của anh ra, ai cũng sợ, nên không ai tình nguyện.Tôi thấy tội nghiệp cho thân xác anh nên tôi đã tình nguyện. Chiều hôm đó trời mưa lâm râm.Tên tiểu đoàn
trưởng hướng dẫn tụi tôi đi ra mộ anh. Hắn mang theo 1 lít rượu đế và kêu tụi tôi uống để lấy can đảm. Hơn 1 năm nay không có giọt rượu nào, anh em thèm nhỏ dãi. Tôi không ghiền rượu, chờ 2 người kia uống xong, phần tôi, tôi lấy rượu thoa toàn thân tôi cho nóng người lên. Hai người kia dành đào trước, và phần cuối tới phiên tôi. Họ sợ, còn tôi thì nghĩ đã làm ơn thì làm ơn cho trót. Thí cô hồn 1 bữa xem sao! Chừng 1 giờ sau thì họ nói tới rồi, và đưa xẻng cho tôi.Thoa thêm 1 ít rượu nữa, tôi leo xuống lỗ. Vừa xấn cái xẻng xuống là tôi cảm thấy đụng phải vật gì mềm nhũn. Tôi biết là đã đụng tới cái xác của anh rồi. Tôi không dám dùng cây xẻng nữa mà phải dùng tay bới hết đất ra, mùi hôi thối tử khí bắt đầu xông vào mũi. Tôi cố chịu đựng khoảng cả chừng 15 phút mới vét sạch đất. Tôi ngửng đầu lên, kêu thả giây xuống cho tôi cột vào xác để kéo lên. Tôi gọi mãi mà không thấy ai cả, té ra là họ thấy hôi quá nên chạy ra xa. Tôi lần mò cột dây xong cũng phải mất khoảng 10 phút. Xong xuôi tôi bắt đầu cho họ kéo lên. Nhiệm vụ kế tiếp là của anh bạn thân của anh ấy rửa xác cho sạch sẽ rồi mới bỏ vô hòm. Anh bạn này cũng sợ quá, không dám làm nên năn nỉ tôi làm tiếp việc này. Không biết tự nhiên có 1 cái gì đã thôi thúc trong đầu tôi, tôi sẽ phải làm tiếp chuyện này, tôi không còn nghĩ đến chuyện sợ hãi gì nữa. Tôi lần mò mở tấm nylon bao ở mặt anh ra. Hai người kia đứng nhìn và cách xa tôi chừng khoảng 2 thước. Khi tôi vừa kéo tấm nylon ra hết thì miệng anh ứa trào máu liên tục không dứt. Hai người kia sợ quá chạy mất. Tôi vẫn điềm tĩnh khấn anh nếu có linh thiêng thì đừng có nhát tôi nữa, để tôi làm xong cho anh vì trời tối rồi. Khi tôi vừa lâm râm khấn xong thì máu ở miệng anh ngưng chảy. Tôi tiếp tục rửa mặt cho anh rồi cột bao nylon lại. Sau đó chúng tôi lấy nước rửa sạch đất cát. Cẩn thận khiêng anh bỏ vào hòm, đóng sơ vài cây đinh. Chúng tôi cột dây thả hòm xuống, và lắp đất lại. Công việc xong xuôi, nhìn đồng hồ thấy đã 8 giờ tối rồi. Chúng tôi về trại bước đi chập chờn như những bóng ma. Cơn mưa phùn chiều nay như đưa tiễn người đồng đội của chúng tôi đã nằm xuống giờ thứ 25 rưỡi...của cuộc chiến tương tàn! Tôi về trại tắm rửa, chà xà bông cả chục lần nhưng vẫn còn ngửi thấy mùi hôi thối của tử khí. Cả tuần sau mới thấy hết.
Thử hỏi các bạn những chuyện thần bí như vậy, tôi giải thích như thế nào đây?
Đặng Ngọc Khảm
|