bạn thân
Một ngày như mọi ngày, sáng cà phê-donut, trưa một mình nhai tô mì gói, chiều ba bốn món có vợ có con. Tưởng đời còn có mấy ai nhàn nhã mà nhạt nhẽo hơn mình! Chưa uống hết tách cà-phê, sáng nay vợ tôi chợt hỏi:
- Ông ơi, bạn thân của ông là ai vậy?
Tôi nhanh miệng trả lời:
- Nhiều lắm, làm sao nhớ cho hết
- Nhiều hả? Nhiều là bao nhiêu?
- Chắc phải trên mười người
- Như vậy chưa chắc là thân
- Sao lại chưa. Bà biết tôi muốn nói tới những người bạn nào không?
- Tôi không biết, nhưng bạn thân đâu có nhiều như vậy.
- Theo bà thì thế nào là bạn thân? Có phải những người mình thích không?
- Chưa đủ điều kiện là bạn thân.
Tôi nghĩ, ừa hén, bà ấy nói có lý. Thật không đơn giản.
- Chắc bà muốn nói tới mấy thằng bạn cũng thích tôi nửa phải không?
- N..o...o..o.! Bộ mấy ông là “gay” hay sao mà phải thích qua, thích lại.
Tôi đỏ mặt, phân trần:
- Không, tôi đâu có “mean” như vậy.
Rồi nói tiếp:
- Hay là mấy người bạn tôi hay ăn nhậu, văng tục nói phét với họ.
- Không phải, đó mới chỉ là bạn nhậu thôi.
Từ nào tới giờ mình có nghỉ đến việc này đâu. Tôi chưa tìm ra được câu trả lời bèn “dục huởn” cầu mưu:
- Không biết ai nửa. Để tôi nhớ lại xem.
Tôi nhìn ra sân sau nhà, thấy hai con két trong lồng chim nhảy múa líu lo. Không hiểu chúng cải nhau việc gì mà con thì gật gù, con thì lắc đầu lia lịa. Tôi nhíu mày cố nhớ lại chuyện xưa.
Hồi còn mài đủng quần trên ghế nhà trường, lúc học tiểu học. Tôi không nhớ ai đã chơi thân với mình cho tới khi học lớp nhì, lớp nhất (sau này đổi lại gọi là lớp bốn, lớp năm). Năm lớp nhì, ba tôi cao hứng kéo tôi về học lớp do ổng phụ trách. Ba tôi là thầy giáo mà người đời hồi ấy hay ca tụng là nhà mô phạm. Có lần ông ấy mở tiệc ăn nhậu với các bạn bè giáo chức khác trong trường. Sau lúc vui vẻ không kềm chế, các nhà mô phạm bèn tố nhau anh một ly, tôi một ly. Rượu vào thì lời ra, tôi còn nhớ ba tôi đã đứng lên phát biểu một câu “xanh dờn”:
- Mấy anh biết không. Bửa nay mình không còn là nhà mô phạm nửa.
- Vậy là cái ... nhà gì? Một ông nhừa nhựa hỏi lại.
- Thì vẫn là nhà giáo, nhưng mà nhà giáo “phạm mô”.
Mấy người bạn của ba tôi phá lên cười thích thú, rồi la lớn:
- Vậy thì “dô” tiếp một ly nữa đi ông thầy!!!
Thời đó “trình độ” hiểu biết chữ nho của tôi cũng cở Bùi Kiệm nên không nghĩ ra mấy ổng định nói gì mà cười khoái chí như vậy. Tôi chỉ biết lờ mờ là lúc đó Việt Cộng mới xuất đầu lộ diện. Họ thường đấp mô chận các tuyến đường. Xe cộ phải dừng lại chờ quân đội tới phá. Xe nào xớn xác ủi phải mấy cái mô đó là mìn nổ. Xe lật, người chết, người bị thương la liệt. Không biết có phải ba tôi muốn nói tới mấy cái mô này không. Nhà giáo mà phạm mấy cái mô đó thì cũng đành toi mạng. Tôi nghi mấy ổng ngầm ám chỉ điều gì khác nên phục tài chơi chữ của các cụ đồ non lắm.
Ba tôi nổi tiếng là thầy giáo giỏi. Người quen hay đem con tới gởi vào lớp của ổng. Thầy giáo Quởn, tên của ba tôi, còn được khen là nghiêm khắc và kỹ luật. Học trò của ba tôi về sau đa số đều đỗ đạt nên người, nhưng vẫn không quên những lằn roi rướm máu in trên tay, hằn trên đít. Cái lối giáo dục đòn roi đó rất phổ biến và được ngầm chấp nhận ở thời kỳ hậu thực dân Pháp.
Khi biết được mình phải làm học trò của thầy giáo Quởn, tôi đã cảm thấy nơm nớp lo sợ. Mấy anh của tôi nghe tin ấy lại chọc ghẹo thêm:
- Mầy lo lấy mo cau bọc đít đi là vừa.
Tôi nhìn mấy ông anh, trong lòng càng thêm lo lắng. Ở nhà ăn đòn nứt đít chưa đủ sao mà vô lớp học phải lãnh thêm nữa? Biết thân phận nên tôi đã cố gắng học hành siêng năng, chăm chỉ và tuân hành kỹ luật răng rắc, mong đừng phạm phải lỗi lầm nào để khỏi bị phạt đòn.
Trong lớp này có một thằng tên Tâm, là con của một cô giáo trong trường. Lúc đầu nó ngồi gần tôi, cùng bàn. Thằng Tâm muốn làm bạn với tôi nên giờ ra chơi nó hay cà rà, nói chuyện với tôi nhiều hơn mấy đứa khác. Nhưng lúc vào học, nó lại ganh đua với tôi ráo riết. Bài nào nó cũng đem ra so điểm với tôi hết. Điểm của nó hơn hoặc bằng với số điểm của tôi nhận được thì thôi, nhưng nếu thua thì bắt đầu thắc mắc moi móc:
- Sao bài toán của tao đáp số cũng đúng như của mầy mà lại ít điểm hơn?
- Tao làm sạch sẽ hơn. Của mầy hơi dơ.
- Sao kỳ vậy, ăn thua gì chuyện dơ với sạch.
- Không tin mầy hỏi ổng đi.
Thầy giáo Quởn đã xác nhận đó là điểm phụ trội mà ổng đề ra để khuyến khích học sinh trong lớp tập thói quen sạch sẽ, ngăn nắp. Lần đó thằng Tâm làm thinh. Hôm khác, bài chính tả của nó lại thua điểm bài của tôi. Bài của nó sai nhiều hơn của tôi một lỗi, đồng thời bị trừ điểm vì có nhiều chỗ bị bôi sửa. Nó không đồng ý nên lên hỏi thầy giáo Quởn một lần nửa. Sau khi được ba tôi chỉ rỏ lỗi, nó đi về bàn lầm bầm nho nhỏ: - không công bằng! Ổng thiên vị con của ổng. Không biết ba tôi nghe được mấy câu ấy không, nhưng kể từ đó trở đi tôi không bao giờ được điểm cao như mọi khi nữa. Tôi có cố gắng cách mấy cũng chỉ đạt được điểm trên trung bình một chút. Thằng Tâm thì vẫn có điểm cao, và hầu hết đều hơn điểm của tôi. Tôi tự thắc mắc không hiểu sao dạo này mình lại học dở hơn trước, trong lòng lo lắng không yên.
Tình hình càng lúc càng trở nên tệ. Tôi lại bị phạt liên tù tì vì mắc phải nhiều lỗi lầm. Mỗi lần như thế thì lãnh cả chục cây roi mây vào bàn tay, vào đít. Cây nào cây nấy thật đích đáng! Tôi đau điếng cả người nhưng phải mím môi nín khóc, vì nếu lỡ có khóc thành tiếng thì sẽ được tặng thêm mấy cây phụ trội nửa. Tan trường về nhà, tôi lấy muối lén ra sau nhà đắp lên mấy chỗ bị đòn cho vết bầm mau tan. Tôi đã giấu má cũng như các anh em trong nhà, vì sợ lỡ việc ấy bay đến tai của ba thì càng chịu thêm nhiều đòn vọt. Ông ấy không bao giờ chấp nhận sự than van kêu nài của người mà ông cho là có lỗi. Riêng tôi vẫn thắc mắc mình đã phạm lỗi gì để bị phạt đòn nhiều như vậy.
Trong nhà không ai biết việc gì đang xãy ra cho tôi, chỉ trừ một người: là ba của tôi đó. Ông ấy trở nên nghiêm và buồn, ít cười ít nói hơn trước. Đầu óc trẻ con, tôi nghĩ chắc có chuyện gì đã xãy ra cho gia đình. Thoạt tiên tôi nghi ba má mình cải cọ hay giận hờn gì nhau. Hay là anh em tụi tôi đã làm gì cho ổng buồn chăng? Nếu đúng như vậy thì chắc có tôi trong đó. Có lẻ tại tôi học dở cho nên mới gây ra cớ sự. Nghĩ đến đó, tôi càng sợ và cố tránh mặt ổng.
Một hôm tan trường về nhà. Thân thể còn ê ẩm vì những lằn roi mới nhận được buổi trưa. Lang thang qua đầu ngõ, thấy tụi bạn trong xóm ngồi trên cây trứng cá rủ rê, bèn theo chúng leo lên. Tôi nuốt một bụng trái trứng cá ngọt lịm, rồi ngã người trên một nhánh cây nhìn lên cao. Bầu trời xanh thẫm với một vài vệt mây trắng trôi lững lờ. Nhìn những cánh chim thanh thoát đang bay lượn trên cao. Tôi chợt mơ ước được như loài cầm điểu ấy, vươn cánh bay xa với một phong thái vô tư, nhàn nhã.
Một thằng bạn đu người đến chỗ tôi đang nằm, cắt đứt luồng tư tưởng mông lung. Trở về với thực tại, tôi cảm thấy lo lắng bồn chồn. Có phải mình đã gây ra lắm điều phiền toái cho cha mẹ và gia đình không? Tôi không biết phải làm gì, chỉ cầu mong cho ba tôi bớt buồn, bớt giận để mình còn dám trở về nhà ăn miếng cơm cho đở đói.
Hôm đó tôi về nhà trễ bữa cơm chiều, má tôi cằn nhằn một vài câu rồi đi dọn thức ăn. Bữa cơm cũng đạm bạc, nhưng tôi ăn lại thấy ngon miệng làm sao ấy. Chắc tại đói vì quá bữa hay tại vì có má tôi ngồi bên cạnh ủi an? Chưa kịp vét hết miếng cơm chót đã nghe ba tôi gọi vọng vào nhà bếp:
- Tám ăn cơm xong lên đây cho ba biểu.
Tôi thứ tám nên ở nhà hay gọi tôi là Tám hay thằng Tám.
- Dạ.
Tôi lớn tiếng trả lời, một tay đè lên ngực để dằn bớt tiếng đập thình thịch trong đó. Chắc lại phải ăn đòn nữa! Không biết bao nhiêu cây đây. Má đưa mắt nhìn tôi thoáng một chút lo âu, bà hỏi:
- Con ăn no chưa?
- Dạ no rồi má.
- Đi rửa miệng rồi lên gặp ổng đi.
- Dạ.
Ông giáo Quởn đang ngồi nơi bàn làm việc trong phòng của ổng. Tôi đi vào đứng cạnh bàn khoanh tay lại, nói:
- Dạ thưa ba gọi con.
- Con ngồi xuống giường đi.
Tôi hồi hộp rón rén ngồi xuống một đầu giường ngủ của ổng, đảo mắt cố tìm xem cái roi lớn cỡ nào, nhưng không thấy. Ba tôi nói:
- Mấy hôm nay ba không ngủ được và suy nghĩ nhiều về việc học của con.
Ông đằng hắng một tiếng rồi tiếp:
- Ba đem con vào học trong lớp của ba để cố tình hướng dẫn thêm cho con.
Nhưng nào ngờ bị học trò của ba nói xấu.
Hớp một ngụm nước, ông thêm:
- Khi nghe thằng Tâm nói lén là không công bằng, ba giận lắm. Từ trước đến giờ
chưa có người lớn, cha mẹ học trò nào dám chê ba như vậy hết. Danh dự của ba
đã bị tỗn thương.
Ông trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Nhưng ba đã sai khi đối xữ tệ với con để chống lại những lời buộc tội đó. Ba đã
không công bằng khi cho điểm không xứng với những bài làm của con. Ba đã
phạt và đánh đòn con nhiều lần vì những lỗi lầm không chính đáng.
Sau một tiếng thở dài, ông tiếp:
- Ba cũng thấy đau lòng và tội nghiệp cho con phải lãnh nhận những lằn roi vô lý
đó.
Từ đầu đến giờ tôi vẫn ngồi yên lắng tai nghe ba nói, đến đây tự nhiên thấy mắt mình cay cay và mờ lệ. Tôi mũi lòng không cầm được nước mắt, nấc lên một tiếng nhỏ nhưng vẫn không dám khóc thành tiếng.
Tiếng của ba tôi lại vang lên:
- Ba hối hận và cảm thấy lương tâm cắn rứt. Ba không thể bắt con chịu đựng thêm
nữa. Ngày mai ba sẽ xin ông hiệu trưởng để chuyển con qua lớp khác, con thấy
sao?
Tôi hít mủi một cái rồi trả lời với gương mặt đầy nước mắt, nhưng trong lòng thì mừng rỡ lạ thường:
- Dạ
- Thôi, con ra nhà sau rửa mặt đi.
- Dạ
Đúng như lời ông đã hứa, sau hôm đó tôi được đổi qua một lớp khác. Điểm của tôi lên cao trở lại và hầu như không bao giờ bị phạt hay ăn đòn lần nào nữa.
Đến đây vợ tôi lên tiếng:
- Chắc ông không kể người đó là bạn thân của ông chớ.
- Thân làm sao được.
- Ông có ghét người ta không?
- Tôi không biết.
- Tại sao?
- Tôi có phần trách ba tôi một ít trong đó.
- Sau đó ông có còn gặp lại anh Tâm không?
- Không, trong suốt mấy năm còn lại ở bậc tiểu học tôi không gặp lại nó lần nào
nữa hết.
Nhưng rồi trái đất tròn, thằng Tâm lại vào học chung một lớp với tôi trong suốt bảy năm dài của bậc trung học từ lớp đệ thất cho đến đệ nhất, không sót một năm nào.
Nó muốn nối lại tình bạn, nhưng tôi đã cố giử giới hạn ở mức bạn học chung lớp như những người khác. Tôi không dám làm bạn thân của nó! Mặc dù tôi đã bỏ qua, không một lần nhắc đến chuyện cũ với ai hết. Tôi trở nên rụt rè trong việc kết bạn, và đã không có người bạn thân nào trong một khoảng thời gian dài nối tiếp.
Tình trạng ấy thay đổi năm tôi lên đệ Ngũ. Ngồi ở bàn trước mặt tôi là thằng Lâm. Lúc đầu nó hay quay xuống hỏi han tôi về bài vở hoặc mượn giấy bút. Đó là việc mà tôi cũng thường làm với các bạn ngồi chung quanh mình. Rồi những giờ chơi sau đó nó hay kiếm tôi đứng nói chuyện khào. Có hôm nó rủ tôi đi ăn hàng vặt, đến lúc trả tiền thì nó giành lấy phần ấy. Nó nói:
- Tao mời mầy mà.
Tôi cãi lại không được nên chịu thua, tự bảo lần sau sẽ đến phiên mình.
- Nhà ba tao có tiệm bán “chạp-phô”, tao phụ giúp ổng nên cũng có tiền xài.
Lâm tự khai và nói thêm:
- Gia đình tao là người Việt gốc Hoa. Buôn bán, thương mãi là căn bản. Tao thích
có thêm giờ để học hành nhưng cũng mê tiền. Bởi vậy bài vở của tao hay trễ
nãy, mầy đừng chê tao nghe.
- Tao cũng có giỏi hơn mầy gì đâu mà chê. Mầy đừng ngại, nếu mầy muốn tao sẽ
chỉ lại điều gì mà tao biết.
- Tao cám ơn mầy trước.
Tôi thấy nó hiền lành và lịch sự nên tiếp tục giữ mối liên lạc bạn bè đặc biệt đó. Thằng Lâm chưa bao giờ làm điều gì cho tôi buồn. Ngược lại, tôi hay từ chối đi chơi ăn uống với nó, vì nó luôn giành trả tiền cho các chi tiêu ấy.
- Tao làm ra tiền, còn mầy thì không.
- Nhưng tao ngại. Mầy nên nhớ “có đi có lại mới toại lòng nhau”.
- Tao với mầy thì khác, đừng để ý tới việc ấy nữa.
Một hôm nó rủ tôi đi uống nước nơi các hàng quán cạnh bờ sông vào buổi tối. Tôi từ chối mãi không được nên nhận lời. Khi ra đến nơi, tôi vô cùng ngạc nhiên thấy thằng Tâm đang ngồi chung bàn với nó. Tôi cố giữ vẻ tự nhiên, ngồi xuống.
- Tao tình cờ đi ngang đây thì gặp thằng Lâm rủ vô uống nước.
(Thằng Tâm phân bua).
Tôi không đề cập đến chuyện đó mà chỉ hỏi một câu xã giao:
- Mầy khỏe không?
- Tao cũng bình thường.
Sau buổi gặp mặt tình cờ đó, thằng Lâm bắt đầu chơi thân với thằng Tâm. Còn tôi thì tránh né không muốn gặp mặt chúng, và giả vờ như không có chuyện gì. Thật trớ trêu, chuyện mình muốn tránh thì cứ phải đụng tới. Chúng tôi làm bạn tay ba như vậy qua trung gian của thằng Lâm. Tôi không biết tụi nó có tâm sự với nhau điều gì về mình không, cũng không thấy thằng Lâm hỏi han. Tôi cố giữ tình bạn với thằng Lâm, và một khoảng cách với thằng Tâm.
Cuối năm đệ nhị, thằng Lâm thi rớt bằng tú tài một còn tôi và Tâm thì tiếp tục lớp đệ nhất. Ba má Lâm bắt nó lấy vợ để nối tiếp sự nghiệp buôn bán của gia đình. Nó mắc cỡ nên không mời tụi tôi đi ăn cưới. Mặc dù có vợ, Lâm vẫn tiếp tục học lại lớp đệ nhị, nhưng rồi vẫn không đậu thêm mãnh bằng nào hết. Nó vẫn giữ tình bạn thân thiết với tôi. Còn tôi thì có dịp xa lánh thằng Tâm. Tuy học chung lớp, chúng tôi rất ít nói chuyện và không bao giờ đi chơi với nhau. Tội nghiệp thằng Lâm, nó buồn vì mặc cảm “học tài thi phận”. Rồi vợ con đùm đề, cộng với chuyện buôn bán làm ăn bận rộn, nó bỏ trường luôn. Tuy vậy, tôi với nó vẫn thỉnh thoảng gặp nhau và vẫn là bạn bè thân thiết như ngày trước.
Sau khi lấy mãnh bằng tú tài hai, tôi và thằng Tâm hoàn toàn mất tin tức nhau. Tôi cũng không cần tìm tòi để biết nó đang làm gì hay học hành ở đâu.
Vợ tôi lại hỏi:
- Anh Lâm thân với ông tới cỡ nào?
- Thì thân như bạn vậy thôi.
- Vợ của anh ấy có thái độ gì không?
- Tôi không biết vì mỗi lần tụi tôi gặp nhau thì không thấy vợ của nó. Nhưng sao
bà hỏi tôi câu đó?
- Thì hỏi cho biết.
Bà ấy hỏi tiếp:
- Lúc lên đại học ông có gặp anh Tâm gì đó lần nào nữa không?
- Không. Nhưng tôi có gặp lại nó một lần khi cả hai không còn đi học nữa.
Mãn khóa trường Hải Quân Nha Trang tôi chọn nhiệm sở ở Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, đơn vị đầu tiên là Dương Vận Hạm Qui Nhơn HQ504. Sau một chuyến hải hành tàu về cặp cầu Tự Do ở bến Bạch Đằng, phía bên ngoài của Bộ Tư Lệnh Hải Quân cạnh bến đò Thủ Thiêm. Trưa hôm ấy có một toán sĩ quan Hải Quân mới ra trường từ Thủ Đức đến thăm viếng chiến hạm.
- Sao lại từ Thủ Đức? Vợ tôi chặn lại hỏi.
- Chắc bà cũng nghe biết về mấy “khóa lưu đày” rồi.
- Ờ, thì tôi có nghe nói là những sĩ quan Hải Quân không học ở Nha Trang được
gọi là “lưu đày”.
- Họ ghi tên đầu quân vào các khóa Hải Quân Nha Trang nhưng bị gởi đi thụ huấn
ở Thủ Đức hay OCS. Danh từ lưu đày mới được họ tự đặt ra sau này thôi.
- Sao lộn xộn quá vậy.
- Thì cứ biết như vậy đi. Để tôi kể tiếp cho bà nghe.
Thằng Tâm là một sĩ quan trong toán đó. Nó vô cùng ngạc nhiên khi gặp tôi trên chiến hạm, còn phần tôi thì cũng sửng sốt không kém. Tôi nghĩ nó là con nhà giàu, thuộc thành phần bon chen và nuôi mộng cao sang, sao lại lọt vô đây. Đời lính thì còn gì là cao với sang nữa! Tuy vậy, tôi cũng vui khi gặp lại bạn học cũ. Sau khi hướng dẫn phái đoàn của nó đi thăm hết khu vực trách nhiệm, tôi mời nó vào phòng riêng để hỏi han thêm.
Nó cũng bị lệnh tổng động viên chi phối nên bỏ học năm thứ hai của trường Đại Học Khoa Học, và ghi danh dự tuyển vào khóa 21 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang nào ngờ thặng dư nên bị gởi qua Thủ Đức.
- Mầy học ở đâu trước khi vào Hải Quân?
Thằng Tâm hỏi tôi.
- Tao gần xong năm đầu của trường Luật.
- Mầy thích đi tàu này không?
- Tao thích lắm. Nhưng “mộng hải hồ giết chết mộng làm luật sư”.
Nó cười không nói thêm lời nào nhưng nét mặt thoáng chút suy tư. Tôi có rủ nó đi ăn, nhưng nó từ chối viện lẽ là đã có hẹn.
Mấy tháng sau tôi có dịp ghé thăm thằng Lâm ở quê nhà. Nó kể lại chuyện thằng Tâm nói về buổi gặp gỡ với tôi trên HQ504. Thằng Tâm nói nó không ngờ tôi thay đổi nhiều hơn hồi còn đi học. Nào là tôi có vẻ trưởng thành hơn, nào là già dặn hơn và cũng có vẻ sang trọng.
- Tao có làm gì mà sang trọng?
Tôi cười và phân bua với thằng Lâm.
- Nó nói mầy đã biết hút thuốc, mà còn hút thuốc Salem nữa.
Nghe đến hai chữ Salem, tôi sực nhớ ngay tới tên Nguyễn văn Độ, đệ nhất đao phủ thủ của khóa 21. Độ là thủ phạm đã rù quến tôi hút thuốc Salem, là “gu” của nó trong thời đó. Tuy nhiên tôi đã nói tránh đi:
- Tao mới tập tành nên hút Salem cho đở bị sặc thôi. Lâu lâu mới làm một điếu
mà, chắc mầy cũng hiểu.
Đó là lần sau cùng tôi gặp lại thằng Tâm. Tôi không biết nó ra đơn vị nào và đồn trú ở đâu cho đến ngày mất nước. Sau khi qua Mỹ định cư được mấy năm, tôi nhận được thơ của Lâm do gia đình tôi ở Việt Nam chuyển qua.
Sau ngày ba mươi tháng tư, tôi lãnh sáu năm trong trại tù cải tạo còn thằng Tâm thì trốn không ra trình diện. Nó vẫn còn độc thân, được thằng Lâm đem về nhà giấu diếm, che chỡ và giúp đỡ về phương diện sinh kế hằng ngày. Thằng Lâm làm thương mại nên vừa có tiền, vừa có điều kiện mua chuộc đút lót. Tụi công an trong vùng bị nó mua hết cho nên thằng Tâm sống với nó một cách yên ổn. Tôi nghe tin ấy mà cảm phục thằng Lâm lắm. Tôi cảm phục cái tình bạn cao thượng và quí hóa ấy. Nó đã bất chấp mọi nguy hiểm và khó khăn để đùm bọc, che chở bạn trong cơn hoạn nạn. Trên đời này dễ kiếm mấy ai!!!
Vợ tôi cũng bày tỏ sự kính phục cho tình bạn cao đẹp đó.
- Tội nghiệp ông Lâm đó quá hén. Nhưng rồi ông đi lính. Chắc ông lại có thêm
nhiều bạn mới trong thời gian quân ngũ phải không?
- Phải, đời lính đã đưa tôi vào một thế giới mới. Tôi đã gặp không biết
bao nhiêu là bạn mới, và những người ấy vẫn còn là bạn của tôi cho đến hôm
nay.
- Ông đã chơi thân với ai trong suốt thời gian này?
- Để coi, tôi bắt đầu đời lính từ trại Bạch Đằng 2.
- Trại đó ở đâu vậy?
- Ở sát bên Bộ Tư Lệnh Hải Quân trên đường Bạch Đằng.
Ngày đầu nhập trại, tôi được hướng dẫn vào Bạch Đằng 2. Sau khi lãnh quân trang và các phụ tùng lỉnh kỉnh khác, tôi vác cái “sac marine” đầy ấp về chỗ tạm nghỉ. Trưa hôm đó, các “quan” cùng khóa nhập trại trước tôi thổi còi ra lệnh tập họp ngoài sân. Các quan ấy chạy vào hối thúc chúng tôi nhanh chóng chạy ra đứng vào đội hình. Tôi mặc bộ đồ dân sự chạy ra và được chỉ vào đứng ở một trung đội lính mới tò te, cũng có nhiều người mặc đồ dân sự như tôi. Mới đầu tôi chọn chỗ đứng phía sau, nhưng bị các “đàn anh” – cùng khóa nhưng nhập trại sớm hơn vài tuần mà đã tỏ ra thuần thục đời lính nên tôi tạm phong cho họ chức đàn anh – đẩy dần lên trên vì chiều cao như cây sậy của mình. Cuối cùng tôi phải đứng ở hàng đầu để cảm thấy sờ sợ và hồi hộp khi trực diện với “đàn anh” trung đội trưởng. Trung đội trưởng của tôi trông thật là oai phong. “Người” mặc quân phục ka-ki vàng, lưng quần phía trước nơi cái bút nịt hơi xệ xuống một chút, dưới chân là đôi giày “sô” bóng nhoáng. Giá mà có con kiến nào muốn bò lên chắc phải trượt té u đầu, vỡ mặt. Tôi ngán nhất là khi phải nhìn thẳng vào mặt “người”. Ngay sát dưới vành nón “cát két” là đôi mắt nghiêm, sáng quắt nhìn thẳng vào bọn “tân binh” chúng tôi với gương mặt lạnh như tiền. Trung đội trưởng hỏi người đứng cùng hàng với tôi, bên trái:
- Anh tên gì?
- Tô Ngọc Điệp
“Người” ra đứng giửa trước mặt trung đội, chân khép kín, hai tay nắm chặt đặt dọc theo sóng quần, người thẳng, ngực ưởn ra phía trước cất to tiếng:
- NGHI. IÊ. .IÊM! Điệp làm chuẩn, Trung đội ba hàng dọc sát cánh nhìn
trước…THẲNG.
Thật là tuyệt! Trung đội trưởng của tôi “hách xì-xằng” không khác gì quan lớn đứng trước hàng quân trong các phim chiến tranh mà tôi đã có dịp xem qua. Tôi phục quá, lén đưa mắt đọc hàng chữ trắng trên bảng tên màu đen của “người”: NGÔ VĂN VŨ. Đang còn lẩm bẩm mấy chữ ấy, thì các “đàn anh” khác đã ùa đến sửa sai và chỉ chúng tôi cách xếp hàng theo đội hình đã được xếp ban lệnh ra. Khi đến màn các trung đội trưởng báo cáo quân số lên đại đội trưởng, tôi lại được thêm một dịp khác để thán phục “đàn anh”. Xếp lớn quả là xứng đáng, còn oai phong hơn trung đội trưởng của tôi một bậc. Sau khi tan hàng, tôi hỏi nhỏ một “tân binh" vào trước tôi mấy hôm:
- Đại đội trưởng tên gì vậy?
- Nguyễn Hùng Tâm
Đêm hôm đó tôi trằn trọc không ngủ được có lẽ vì lạ “giường”, lạ chỗ. Tôi nghĩ đời lính cũng hay hay, có cái gì mới mới, có cái gì nề nếp, oai oai một chút trong đó.
- Nhưng sao ông lại mặc đồ dân sự?
Vợ tôi chận lại thắc mắc.
- Lần đầu tiên chưa biết phải làm sao. Nhưng bà biết không, lần kế đó tụi tôi đã
mặc quân phục tập họp, trông giống như “binh méo-cai tròn” vì chưa được sửa
cho vừa cỡ của mình.
Thời gian tạm trú ở trại Bạch Đằng 2 tuy ngắn ngủi nhưng cũng đầy kỹ niệm. Người bạn mới của tôi ở đó là HC2 Tô Ngọc Điệp (HC2= Đệ Nhị Hổ Cáp, tên của khóa 20 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang). Đó cũng là sự ngẫu nhiên vì tôi và hắn đứng cùng hàng, cùng trung đội mà chỗ ngủ cũng cạnh bên nhau. Chúng tôi trở nên gần gũi và có nhiều chuyện để kể cho nhau nghe. Cả hai đều mới rời ghế nhà trường, độc thân. Thật ra chín mươi chín phần trăm HC2 chúng tôi có cùng hoàn cảnh đó. Có lần Điệp rủ tôi về nơi nó trú ngụ ở khu Bàn Cờ đường Phan Đình Phùng. Nhà của anh chị nó trong khu phố thương mãi, bên trong bày biện giống như một tiệm chạp-phô. Thì đúng rồi, anh chị nó là chủ tiệm chạp phô mà không giống sao được. Trong tiệm có đủ mọi thứ kể cả hàng vải may mặc. Nó chiếm một khu nhỏ trên cái gác lửng. Sách vở, quần áo còn vung vãi trên bàn và giường ngủ. Tôi mới làm quen với đời lính chỉ mấy hôm thôi nên cái cảnh đó cũng không có gì xa lạ với mình, nó chỉ gây cho tôi cái cảm giác luyến tiếc, nhớ nhung những ngày tháng cũ. Tô Ngọc Điệp và tôi trở nên gần gũi với nhau nhiều hơn khi chuyển vào thụ huấn căn bản quân sự ở Quang Trung. Chúng tôi vẫn được xếp cùng một trung đội và cũng đứng cùng hàng. Đó cũng là lý do để bạn bè còn giử liên lạc thường xuyên với nhau.
Sau khi ra tới Nha Trang các đội hình của chúng tôi được sắp xếp lại hoàn toàn mới, chúng tôi tách ra mỗi người một trung đội khác. Bạn bè vẫn gặp nhau chào hỏi, nhưng mỗi thằng lại bận rộn với nhiều bạn mới của mình.
Khi còn ở Quang Trung, tôi có thêm một bạn khác là HC2 Phạm Công Hoàng. Hắn cũng cùng một trung đội với tôi. Chúng tôi hay tâm sự và chuyện trò trong những giờ nghỉ sau các buổi tập ngoài “bãi”. Hoàng cũng hay san sẽ cho tôi các món ăn mà nó được người yêu tiếp tế. Có bồ sớm cũng vui, vừa có người để thương để nhớ vừa được ăn ngon mặc đẹp!
- Ăn ngon thì đồng ý, nhưng sao lại mặc đẹp? Vợ tôi cật vấn.
- Vì nó phải ăn diện để đi gặp bồ.
- Vậy bồ của ông đâu?
- Lúc đó tôi vẫn chưa có bồ. Bà thấy tôi có cù lần không?
- Không biết, vụ đó còn phải hỏi lại.
- Không tin thì thôi. Nhưng tôi vẫn nhớ đến lòng tốt của Hoàng. Nhiều lúc tôi coi
nó như một người anh của mình.
- Anh Hoàng có sang Mỹ không?
- Có, nó đang ở San Jose. Lần đại hội 2003 tôi có gặp lại nó.
HC2 Phạm Công Hoàng vẫn mạnh, bình yên và sinh hoạt thường xuyên với gia đình HC2 bắc Cali.
Nha Trang, miền thùy dương cát trắng. Một địa danh với nhiều thắng cảnh, điểm đến của hàng ngàn du khách, và dĩ nhiên cũng là nơi chứa đầy kỹ niệm của những chàng HC2 trong bước đầu của đời hải nghiệp. Ngày tháng trôi qua, chúng tôi sống chung đụng nhau, chia vui xẻ buồn cùng những gian khổ của đời lính. Thời gian huấn luyện ở Nha Trang, đặc biệt chuyên về hải nghiệp đã đưa chúng tôi lại gần nhau hơn. Sự gần gủi đó đã tạo ra một tình cảm mới giửa chúng tôi: tình đồng đội. Cái tình đồng đội đó dần dần trở thành chất keo nối kết chúng tôi thành một khối riêng biệt: Đệ Nhị Hổ Cáp. Chúng tôi đã tập tành để trở thành những chàng thủy thủ, biết yêu biển cả, yêu mộng hải hồ. Không nhiều thì ít, chúng tôi trở nên thân thiết với nhau, cái tình thân của bạn cùng khóa. Tôi nghĩ đó cũng là điểm đặc biệt của đời quân ngũ.
Sau khi ra trường mỗi thằng một ngả, vật lộn với cuộc sống, lăn lóc trong chiến tranh nhưng khi có cơ hội gặp nhau dù bất cứ ở đâu, chân trời hay góc biển chúng tôi vẫn tay bắt mặt mừng han hỏi huyên thuyên, chuyện trò không dứt tưởng như những ngày còn ở quân trường. Chúng tôi vẫn theo dõi tin tức của các bạn cùng khóa để biết thằng nào phục vụ ở đâu, thằng nào mới được thăng cấp bậc, thằng nào mới cưới vợ, và buồn lắm khi được tin có thằng mới hy sinh trong trận chiến.
Hiệp Định Paris năm 1973 tưởng sẽ mang lại hòa bình cho đất nước, nhưng có ai ngờ được nó đã đưa đến cái chết tức tưởi của chế độ Cộng Hòa vào cuối tháng Tư năm 1975. Sự sụp đổ của chế độ miền Nam kéo theo một cuộc trốn chạy bi hùng của người dân, trong đó có đủ mọi thành phần tầng lớp của xã hội. Người ta kéo nhau ra đi, chấp nhận mọi gian khổ, mất mát để mong trốn thoát những sự trừng phạt, trả thù của chế độ mới. Nhưng may mắn đã không đến như hy vọng cho tất cả mọi người trong cuộc chạy trốn đó. Trước hết là những người không tìm được cơ hội hay phương tiện đào thoát, rồi đến những kẻ gặp hoàn cảnh ngang trái, gia đình phân tán nên đành chấp nhận ở lại, để rồi phải oằn oại dưới phong ba bảo táp đổ ập đến từ chế độ vô nhân, vô luân, vô đạo.
Chính quyền Cộng Sản coi con người như một trong những phương tiện phục vụ đảng và nhà nước. Người ta đã bị đẩy đi làm kiếp trâu ngựa để cũng cố chế độ. Những người trốn được ra khỏi nước cũng có khi gặp phải hoàn cảnh cay nghiệt khác. Không phải ai cũng đến được bến bờ tự do an toàn. Nhiều người đã bỏ mình trên biển cả, hoặc gia đình tan nát vì lũ cướp biển man rợ như loài quỷ dữ. Mỗi gia đình, mỗi cá nhân một hoàn cảnh. “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”, làm sao nói hết được những nhục nhằn, tai họa mà người dân miền Nam phải gánh chịu.
Hoàn cảnh ngang trái và định mệnh đã đẩy đưa tôi vào cuộc sống tù đày của chế độ cộng sản. Những ngày tháng nhục nhằn trong trại tù cải tạo đã mang đến cho tôi cảm giác ngậm ngùi đau xót, lắm lúc phải gục đầu hối tiếc vì đã quyết định sai lầm khi chấp nhận cảnh đời nghiệt ngã. Sáu năm tù cải tạo không dài lắm nhưng đủ để giết chết những mảnh đời son trẻ, cầy nát hạnh phúc lứa đôi.
- Tôi biết tù cải tạo các ông chịu nhiều khốn khổ, thiếu thốn. Nhưng ông có biết
vợ con của các ông sống chết ra sao dưới chế độ mới không? Vợ tôi lên tiếng.
- Tôi cũng hình dung ra những khổ sở và cay đắng mà mẹ con bà gánh chịu. Tụi
tôi ở trong nhà tù nhỏ, còn mẹ con bà thì ở trong nhà tù lớn, và cả dân tộc Việt Nam đều sống trong ngục tù Cộng Sản.
- Nhưng bên cạnh đó chúng tôi còn phải đấu tranh với rất nhiều cám dỗ và thử
thách.
- Bà nói phải. Từ năm thứ hai trở đi, nhiều tù cải tạo trở thành con bà phước vì
vợ của họ không nuôi nổi con cái lại bị cán bộ Cộng Sản săn bắt, dụ dỗ nên một
số đã sa ngã từ vợ sĩ quan chế độ Cộng Hòa trở thành vợ cán bộ Cộng Sản.
Những loại tin tức như thế đó thỉnh thoảng bay đến cho bọn tù cải tạo chúng tôi. Cá nhân tôi cũng ngầm lo sợ mình sẽ là nạn nhân kế tiếp. Nhưng cảm tạ ơn trên đã dành cho tôi sự may mắn. Vợ của tôi xứng đáng là người đàn bà trung trinh, quyết tâm giử lòng son sắc chờ chồng. Đó là niềm hãnh diện, và là lẻ sống còn lại của tôi sau ngày ra khỏi trại tù.
Sáu tháng sau ngày được thả ra, theo vận nước nổi trôi gia đình tôi vượt biển đến Hồng Kông, rồi được định cư tại Hoa Kỳ sau bảy tháng ở trại tỵ nạn.
Những ngày tháng đầu đặt chân lên xứ người chúng tôi thật ngỡ ngàng, ngơ ngác. Bên cạnh những lo âu trăn trở do cảm giác lạc lỏng bơ vơ, chúng tôi đã thật sự hưởng mùi tự do cùng những văn minh tiến bộ vào bậc nhất trên thế giới. Trong nỗ lực, cố gắng xây dựng một cuộc sống mới, chúng tôi đã may mắn được nhiều đồng hương tị nạn ra đi từ năm 75 tận tình giúp đỡ. Làm sao kể hết nỗi vui mừng và cảm giác ấm cúng khi gặp được một người Việt trên bước đường lưu lạc. Nỗi vui đó đã lên đến cao độ khi chúng tôi nối được liên lạc, và họp mặt lần đầu tiên với gia đình Đệ Nhị Hổ Cáp ở miền Nam Cali. Đó là lần gặp gỡ các Hổ Cáp 2, các chị và các cháu tại nhà bạn Hà văn Lượm. Chúng tôi không quên được sự hỏi han, săn sóc của các bạn và gia đình. Lần ấy trông các quan HC2 còn rất trẻ, nhiệt huyết tràn trề - mới hơn ba mươi tuổi đầu mà không còn trẻ sao được! Quan nào cũng lịch sự, hào phóng. Còn các chị thì cũng không khác gì những hoa khôi của “Trường Đại Học Hải Quân Nha Trang”. Tôi cảm thấy an ủi và hãnh diện. Hãnh diện vì đại gia đình Đệ Nhị Hổ Cáp hào hùng thuở nào vẫn còn đây và mình lại là một thành viên trong đại gia đình đó.
Tôi vẫn nhớ những món quà cùng sự giúp đỡ mà các bạn đã ưu ái gởi đến gia đình tôi lúc ấy, mặc dù các bạn vẫn còn đang chật vật gây dựng cuộc sống mới. Thế mới biết “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, và “lá lành đùm lá rách” mang nhiều ý nghĩa như thế nào. Tôi không quên được cái hôm quan Ngô Văn Vũ chở đến tặng cho tấm nệm giường, cái bàn con, những chiếc ghế và cả một số dụng cụ dùng trong nhà bếp. Kế đến là sự giúp đở của HC2 Nguyễn Văn Chừng từ Texas. Cám ơn các bạn nhiều lắm. Đó là những kỹ niệm đẹp mà gia đình tôi rất trân quý.
Mới đó mà đã gần ba mươi năm. Ba mươi năm miệt mài nơi xứ người, cố công gây dựng mái ấm gia đình. Ba mươi năm lăn lộn với cuộc sống. Nhiều khi vui cười, nhưng cũng có lúc ưu tư lo nghĩ. Lo nghĩ cho gia đình chưa hết, trằn trọc vì tương lai của con cái chưa xong, ngoảnh mặt lại đã thấy đầu hai thứ tóc, chân đã mỏi, gối đã chùn. Thì ra mình sắp trở thành ông cụ. Ôi cuộc đời sao mà ngắn ngủi, nhiều buồn hơn vui! Tôi cứ tưởng tuổi thanh xuân của mình như mới hôm qua thôi. Tôi vẫn thấy những ngày tháng vui chơi của thời niên thiếu như còn mới lắm vậy; những lúc nắm tay người yêu dạo phố Sàigòn còn sờ sờ trước mặt đó. Vậy mà những thứ ấy bổng nhiên trở thành dĩ vảng. Cái câu “Life is too short ...” thỉnh thoảng có nghe vài người nhắc nhở ở đâu đó thật vô cùng thấm thía.
Cũng may, buổi hoàng hôn vẫn còn sót lại vài tia nắng ấm. Gia đình Đệ Nhị Hổ Cáp trở thành nơi nương tựa của những con hổ cáp già mỏi mệt. Sinh hoạt của Hội Ái Hửu Đệ Nhị Hổ Cáp càng ngày càng thêm khởi sắc. Các bạn HC2 từ khắp nơi trên thế giới đã tìm lại được với nhau mỗi ngày một đông đủ. Sợi dây liên kết nối liền các thành viên gia đình Đệ Nhị Hổ Cáp càng lúc càng chặt chẻ - cũng nhờ bạn Lê Văn Châu đã điều hành Trang Web Đệ Nhị Hổ Cáp một cách sốt sắng và tuyệt vời! Chắc mình cũng nên “bravo” bạn Châu một lần cho phải đạo nghĩa. Cám ơn quan Châu.
Những lần họp mặt tại các địa phương mà nhóm Nam Cali gọi là “Mừng Ngày Gặp Nhau - MNGN” tạo thêm điều kiện thắt chặt tình thân hữu. Vài tháng không gặp nhau thì đã thấy nhớ, thấy thiếu vắng một thứ gì ấy. Nhớ những ly rượu cay, những đĩa gỏi, mâm chả giò, thịt nướng, nem chua ... hay là chén nước mắm đậm đà mùi vị quê hương. Mặc dù những món ăn ấy có góp phần tô điểm thêm cho buổi họp mặt, nhưng trên hết vẫn là niềm vui được gặp lại bạn hữu.
Suy đi tính lại, chúng tôi đã có nhiều lần MNGN hơn những lần đến gặp gở thăm viếng họ hàng, người thân trong gia tộc. Tôi có bốn anh em sống trên đất Hoa Kỳ này, nhưng đã mấy năm chưa có dịp gặp mặt còn nói chi đến chuyện nâng ly, cạn chén. Thỉnh thoảng có hỏi han trên điện thoại, chỉ mấy câu về sức khõe hay tình hình cuộc sống. Chưa bao giờ dám vỗ vai, gọi “mầy-tao”; cũng không thể mang tâm sự, nỗi lòng hay những kỷ niệm vui buồn mà chia sẻ như khi các HC2 gặp nhau.
- Chỉ có bạn thân mới “mầy-tao” và “nhiều chuyện” như vậy.
Vợ tôi cắt ngang và thêm:
- Nói “vòng vo, tam quốc” rồi ông cũng có trên mười người bạn thân.
- Tôi nghĩ chắc là vậy, mà có khi lên đến cả trăm.
- Khi nào?
- Ba năm một lần, là lúc Đại Hội của Gia Đình Đệ Nhị Hổ Cáp đó.
- Phải rồi, tôi còn thấy các ông mở đầu hay cuối email đều gởi chữ “thân” kèm
theo. Chúc mừng cho các ông! Hảy cố mà giử lấy tình bạn trong sáng đó và cho
các chị em Hổ Cáp2 chúng tôi hưởng lây.
- Cám ơn bà. Bà nói đúng, chúng tôi sẽ cố gắng giử cho tình thân hữu Đệ Nhị Hổ
Cáp trở thành bất diệt.
Huỳnh Kim Chiến
|