N hân dịp nói chuyện với người bạn trong sở về năm cũ, năm mới, về năm ta, năm tây, tôi mới biết được thêm một chi tiết mà có lẽ phần đông chúng ta chưa biết hoặc không để ý tìm hiểu. Hôm đó, tôi còn nhớ rỏ đó là sáng thứ hai đầu tuần, giửa tháng 12 năm 2008, vào sở làm. Sau khi làm xong một vài báo cáo hàng tuần và gởi đi rồi thì một người bạn Mỹ cùng sở vào phòng làm việc của tôi và hỏi thăm như anh vẫn thường làm hằng ngày. Anh hỏi người Việt chúng ta có đón mừng Christmas và New Year không? Tôi trả lời có và cho biết thêm chúng tôi còn đón mừng cã hai năm mới Tây và Ta. Câu chuyện tiếp nối với thắc mắc về năm ta. Anh hỏi năm nay là năm con gì? Tôi trả lời năm nay là năm Tý, con chuột, còn năm tới là Sửu, con trâu. Tôi còn nhanh nhẫu mở ngăn kéo đem ra một bài viết về “Chinese Zodiac 2009 for Year of Ox” lấy từ website (http://www.chinesefortunecalendar.com/2009/2009Zodiac.htm) vài tuần trước và đưa cho người bạn Mỹ xem. Anh đọc xong rồi thắc mắc: “ Tại sao có male và female signs kế bên hình những con vật?” Thú thật với quý bạn, lấy bài viết nầy từ internet, tôi chỉ muốn biết năm nào thuộc về con Giáp nào mà thôi, chưa có thì giờ đọc hết chi tiết của bài. Đến khi người bạn Mỹ nêu lên thắc mắc, tôi ngạc nhiên, đọc lại nguyên bài thì mới biết được nguyên do sắp xếp con Giáp nào thuộc giống đực, con Giáp nào thuộc giống cái. Trên đây là lý luận của người Trung Hoa, còn người Việt chúng ta thì phân tích như thế nào về Âm, Dương? Trích đoạn nguyên văn sau đây từ trang web (http://www.vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2006/05/3B9E973D/?q=1) có tựa là “Tìm hiểu về 12 con Giáp”: “Người xưa quan niệm Thiên là căn bản gốc, Địa là ngọn ngành. Lập ra Thiên can người xưa lấy số Dương của Hà Đồ (số lẻ) là 1, 3, 5, 7, 9, lấy số 5 ở giữa gấp đôi lên để bao hàm cả âm can (Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý) và cả dương can (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm), tất cả 10 can theo thứ tự Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Địa chi lấy số âm (số chẵn) là 2, 4, 6, 8, 10. Lấy số 6 ở giữa nhân gấp đôi để tạo thành 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi bao gồm cả dương chi (Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất) và âm chi (Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi). Thời xa xưa lấy mặt trời làm gốc. "Mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặn thì nghỉ". Gặp hôm trời u ám không thấy mặt trời, thật chả biết dựa vào đâu. Tương truyền có một người tên là Đại Nhiêu đã lập ra Thập can và Thập nhi chi để tính thời gian. Thập can và Thập nhi chi phối hợp với nhau để sinh ra Lục thập hoa giáp (chu kỳ 60 năm gọi là Nguyên). Lịch can chỉ ở 3 đời Hạ, Thương, Chu (bên Trung Quốc) không giống nhau. Hiện nay dùng lịch pháp đời Hạ, tức lấy tháng Dần làm khởi đầu của năm. Tý (23-1 giờ): Lúc chuột đang hoạt động mạnh. Sửu (1-3 giờ): Lúc trâu đang nhai lại, chuẩn bị đi cày. Dần (3-5 giờ): Lúc hổ hung hãn nhất. Mão (5-7 giờ): Việt Nam gọi mèo, nhưng Trung Quốc gọi là thỏ, lúc trăng (thỏ ngọc) vẫn còn chiếu sáng. Thìn (7-9 giờ): Lúc đàn rồng quây mưa (quần long hành vũ). Rồng chỉ là con vật do con người tưởng tượng ra, chứ không có thực. Tỵ (9-11 giờ): Lúc rắn không hại người. Ngọ (11-13 giờ): Ngựa có dương tính cao. Mùi (13-15 giờ): Lúc dê ăn cỏ không ảnh hưởng tới việc cây cỏ mọc lại. Thân (15-17 giờ): Lúc khỉ thích hú. Dậu (17-19 giờ): Lúc gà bắt đầu lên chuồng. Tuất (19-21 giờ): Lúc chó phải tỉnh táo để trông nhà. Hợi (21-23 giờ): Lúc lợn ngủ say nhất.” Thập Can và Thập nhị Chi được dùng đặt tên cho những năm Âm Lịch:
Theo tài liệu trong trang web (http://horoscope.findyourfate.com/): “The planets, including the moon and sun, were in old times called traveling stars, but today we simply call them the seven planets of antiquity. It appears to an Earth-based observer that in the course of one year, the sun completes a full revolution around a large circle on the celestial sphere. This circle is called the ecliptic orbit. The planets and the moon are always found on the sky within a narrow belt, 180 wide, centered on the ecliptic, called the zodiac. The area around it is called the zodiacal belt. The zodiacal belt is a celestial highway where the movement of all the planets, the sun and the moon takes place when observed from the Earth. Twelve zodiac constellations are placed along the ecliptic path traveling the zodiac belt. Their names are Aries, Taurus, Gemini, Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius, Capricorn, Aquarius, and Pisces.” 12 chòm sao đươc dịch ra tiếng Việt như sau: Aries: Dương Cưu Taurus: Kim Ngưu Gemini: Song Nam Cancer: Bắc Giải Leo: Hải Sư Virgo: Xử Nữ Libra: Thiên Xứng Scorpio: Hổ Cáp Sagittarius: Nhân Mã Capricorn: Nam Dương Aquarius: Bảo Bình Pisces: Song Ngư Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa mượn tên 12 chòm sao trên để đặt danh xưng cho các khóa Sĩ Quan Hải Quân đào tạo từ Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang (bắt đầu từ khóa 7 đến khóa 26):
“K hi chuyển-giao cho Hải-Quân Việt-Nam, ngoài số thứ-tự ra còn có tên riêng của khóa. Mỗi tên tượng-trưng cho một chòm sao. Trong Hải-Quân, với biển cả mênh-mông, hải-hành xuyên đại-dương là nghề của chàng. Thời đại văn minh tiến-bộ như hiện nay dù có vệ-tinh theo dõi, nhưng căn-bản của việc định vị-trí trên biển bằng các tinh-tú vẫn phải học, vẫn phải biết đối với các chiến-sĩ áo trắng.Ðó cũng là một niềm vui mà cũng là một nghệ-thuật vừa áp-dụng toán-học cũng như kinh-nghiệm trong ngành hàng-hải. Trong vũ-trụ, ngoài Thái-Dương-Hệ, chúng ta quan-sát thấy có những chòm sao kết-hợp với nhau thành những hình dạng gần như không thay đổi, xuất-hiện trên bầu trời tùy theo ngày giờ và vị-trí của người nhìn. Ðó cũng là những mục-tiêu của chúng ta dùng để xác-định vị-trí con tầu. Theo toán học không-gian, trái đất tạm xem như là trung-tâm điểm của Vũ-Trụ hình cầu. Mặt Trời di-chuyển giáp vòng trên Hoàng-Ðạo ( Ecliptic ) trong thời-gian là 365 ngày 1/4 ( một năm ), đi qua 12 chòm sao nằm dọc theo vòng cung lớn. Các chòm sao này tạo thành 12 con giáp ( Zodiac ) của khoa chiêm-tinh-học Tây-Phương như sau: - Bảo-Bình ( Verseau hay Aquarius: từ 21 tháng 01 đến 19 tháng 02 ) - Song-Ngư ( Poissons hay Pisces: từ 20 tháng 02 đến 20 tháng 03 ) - Dương-Cưu ( Bélier hay Aries: từ 21 tháng 03 đến 20 tháng 04 ) - Kim-Ngưu ( Taureau hay Taurus: từ 21 tháng 04 đến 20 tháng 05 ) - Song-Nam ( Gémeaux hay Gemini: từ 21 tháng 05 đến 21 tháng 06 ) - Bắc-Giải ( Cancer: từ 22 tháng 06 đến 22 tháng 07 ) - Hải-Sư ( Lion hay Leo: từ 23 tháng 07 đến 23 tháng 08 ) - Xử-Nữ ( Vierge hay Vergo: từ 24 tháng 08 đến 22 tháng 09 ) - Thiên-Xứng ( Balance hay Libra: từ 23 tháng 09 đến 23 tháng 10 ) - Hổ-Cáp ( Scorpion hay Scorpius: từ 24 tháng 10 đến 22 tháng 11 ) - Nhân-Mã ( Sagittaire hay Sagittarius: từ 23 tháng 11 đến 21 tháng 12 ) - Nam-Dương ( Capricorne hay Capricornus:Từ 22 tháng 12 đến 20 tháng 01) Như trên các chòm sao được xếp thứ-tự ngày tháng theo khoa Tử-Vi Tây- Phương. Ðầu tiên là Bảo-Bình và cuối cùng là Nam-Dương. Tuy nhiên trong Hàng-Hải Thiên-Văn, Hoàng-Ðạo và Xích-Ðạo hợp với nhau một góc nghiêng là 23 độ 27 phút. Hai vòng tròn đó cắt nhau tại 2 điểm " Gamma " và " Gammá ", ta gọi là Xuân-Phân và Thu-Phân. Vòng khởi điểm được tính lúc mặt trời đi từ " Gamma " và trở về lại là một năm. Ngày 21 tháng 03 Dương-Lịch hằng năm là lúc mặt trời đi qua điểm xuất-phát, cũng là vùng có chòm sao Dương-Cưu nên được coi như số 1 và mặt trời mỗi tháng chiếm một cung, khi đi giáp vòng thì đến chòm sao Song-Ngư là số 12. Căn-cứ vào số thứ-tự các chòm sao ở trên để đặt tên cho khóa. Khóa 7 SQHQ/NT, lúc này vị Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên là HQ Th/Tá Lê-Quang-Mỹ. Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân đầu tiên là HQ Ð/Uý Chung-Tấn-Cang.Giám-Ðốc trường SVSQ là HQ Ð/Uý Nguyễn-Ðức-Vân. Tuy nhiên dù Pháp đã chuyển-giao cho HQVN nhưng Giáo-Sư và Huấn-Luyện-Viên vẫn là người Pháp. Ngoại trừ Căn-Bản Quân-Sự và Vũ-Khí-Nhẹ là do Huấn-Luyện-Viên Việt-Nam phụ-trách. Ðến tháng 5 năm 1957 tất cả Sĩ-Quan và Huấn-Luyện-Viên Pháp cuối cùng rút khỏi quân-trường. Khóa 7 được đặt tên Ðệ Nhất Thiên-Xứng đó là chòm sao số 7. Các khóa kế tiếp cứ thế mà tính theo vòng thứ-tự 12 con giáp như trên. Khóa 8 là Ðệ Nhất Hổ-Cáp, khóa 9 là Ðệ Nhất Nhân-Mã và tiếp-tục cho đến Ðệ Nhất Song-Ngư. Tiếp-theo là Ðệ Nhị, Ðệ Tam. v.v.”. (https://www.khoahoc.net/baivo/tranthilaihong/150207-tuvitayphuong.htm) “Các hành tinh Thái Dương hệ ảnh hưởng trên cá tính và vận mạng con người, xếp theo 12 con giáp trong Tử vi Tây phương. Bổn mạng Tử vi Tây phương còn dựa trên 4 yếu tố thiên nhiên : Lửa, Gió – không khí - , Đất, và Nước. 10 hành tinh Thái Dương hệ : - Mặt Trời : cầm tinh tuổi Hải Sư (Leo) - Mặt Trăng : cầm tinh Bắc Giải (Cancer) - Thuỷ Tinh – Mercury : cầm tinh Song Nữ (Gemini) và Xử Nữ ( Virgo) - Kim Tinh – Venus, nữ thần Ái tình : cầm tinh Kim Ngưu (Taurus), và Thiên Xứng ( Libra) - Hoả Tinh – Mars, thần Chiến tranh : cầm tinh Miên Dương (Aries), và Hổ Cáp (Scorpio) - Mộc Tinh – Jupiter, Thần Vương tinh, vợ là nữ thần Hôn nhân Junon : cầm tinh Nhân Mã (Sagittarus) - Thổ Tinh – Saturn : cầm tinh Nam Dương (Capricorn) - Thiên Vương Tinh – Uranus : cầm tinh Bảo Bình (Aquarius) - Hải Vương Tinh – Neptune : cầm tinh Song Ngư (Pisces) - Diêm Vương Tinh – Pluto : cầm tinh Hổ Cáp (Scorpio) Trong 10 hành tinh Thái Dương hệ, thì Diêm Vương tinh Pluto nhỏ nhất và mới đây không được coi là hành tinh nữa, nhưng vẫn ảnh hưởng vận mạng con người, từ ngày 6 tháng 10 năm 2006 đến hết năm 2007. Diêm Vương tinh có quỹ đạo đi sát Hải Vương tinh Neptune. Cả hai đều có tầm ảnh hưởng mạnh, nhất là trong các lãnh vực liên hệ tình duyên, tiền tài và sức khoẻ. Kể từ năm 1906 đến nay, sau cả 100 năm, nay mới là dịp cả hai ngôi sao cùng sát cánh, đem lại nhiều cơ may cho các tuổi được chiếu mệnh ( Song Ngư - Pisces, và Hổ Cáp - Scorpio). Những yếu tố thiên nhiên ảnh hưởng vận mạng : - Lửa : ảnh hưởng trên những tuổi Hải Sư – Leo, Miên Dương - Aries, và Nhân Mã – Sagittarius - Gió – Không khí : ảnh hưởng Song Nữ – Gemini, Thiên Xứng – Libra, và Bảo Bình Aquarius - Đất : ảnh hưởng Kim Ngưu – Taurus, Xử Nữ – Virgo, và Nam Dương – Capricorn - Nước : ảnh hưởng Bắc Giải – Cancer, Hổ Cáp – Scorpio, và Song Ngư – Pisces.” 12 con giáp, 12 chòm sao. Thiên Địa gặp nhau. Đông Tây hòa hợp. Sưu tầm đặc biệt cho đặc san 2009 lê văn châu |